Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05. Niệm Phật pháp môn thù thắng

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 12996)
05. Niệm Phật pháp môn thù thắng

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 3: THỰC HÀNH

Niệm Phật pháp môn thù thắng

*

Khi tu ai cũng muốn đạt được kết quả, đó là thường tình chẳng có chi lạ, lại nữa nhiều người muốn đọc kinh sách để hiểu sâu, biết rộng củng cố niềm tin hầu tu học được tinh tấn, nhưng có nhiều người chỉ nhứt tâm niệm Phật, cho nên tìm hiểu về pháp môn nầy, tưởng cũng là điều cần thiết.

Rốt ráo mà nói, yếu chỉ của người tu theo pháp môn niệm Phật, là nhứt tâm niệm sáu tiếng “Nam Mô A Di Ðà Phật”, bất luận là khi đi, đứng, nằm, ngồi, để cầu vãng sanh về nước cực lạc.

Có lẽ chúng ta cũng nên tìm hiểu về pháp môn nầy trong các vấn đề:

- Do đâu mà có pháp môn niệm Phật.
- Cảnh giới cực lạc.
- Hành pháp môn niệm Phật như thế nào theo lời Phật dạy.

A . - Do đâu mà có pháp môn Niệm Phật:

Những kinh điểnliên quan đến đức Phật A Di Ðà và cảnh giới ngài hộ trì được gọi là Cực Lạc, đó là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng ThọA Di Ðà cho nên muốn tìm hiểu về Tịnh độ tông hay pháp môn Niệm Phật, cần hiểu qua ba bộ của Tịnh độ tông.

1. Vô Lượng Thọ Kinhbộ kinh chánh yếu, trong kinh nầy giải tích đức Phật A Di Ðà từ thuở trước kia khi tự biết mình có quả Phật, cho đến nay ngài đang ngự nơi phía Tây là Cực Lạc cảnh giới, Ngài hiện lo tiếp độ mọi chúng sanh chí thành cầu nguyện vãng sanh về cảnh giới cực lạc.

Theo kinh nầy, về thời đức Phật Thế Tự Tại Vương ra đời, có một vị quốc vương Kiều Thi Ca. Vua Kiều Thi Ca nghe đức Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi vua, xuất gia làm vị tỳ kheo hiệu Pháp Tạng. Một hôm Ngài đảnh lễ Phật, quỳ xuống, chắp tay cầu nguyện Phật chứng minhphát nguyện 48 lời nguyện. Do nguyện lực ấy, sau này thành đức Phật A Di Ðà.

Bộ Kinh nầy cũng gọi là: Ðại Bổn, Ðại A Di Ðà Kinh, Ðại Vô Lượng Thọ Kinh,

Lại theo kinh Bi Hoa, về đời vua Chuyển Luân Thánh Vương tên Vô Tránh Niệm có vị đại thần Bảo Hải. Vị này có người con tên là Bảo Tạng, tướng tốt dị thường sau xuất gia thành Phật, hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Một hôm vua Vô Tránh Niệm nghe Phật thuyết pháp liền phát tâm muốn cúng dường các món ăn uống, y phục cho đức Phậtđại chúng luôn luôn trong ba tháng. Vị đại thần Bảo Hải khuyên vua nên phát tâm cầu đạo vô thượng. Vua liền phát nguyện sau nầy thành Phật sẽ làm giáo chủ một cảnh cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Vua Vô Thánh Niệm phát nguyện xong, đức Bảo Tạng Như Lai liền Thọ Ký cho vua sau nầy sẽ thành Phật hiệu là A Di Ðà và cõi nước của ngài sẽ là cõi Cực Lạc Tây Phương. Vị Ðại Thần Bảo Hải sau nầy cũng thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Theo Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, phẩm thứ bảy Hóa Thành Dụ : Về thời quá khứ rất xa, tại nước Hảo Thành có vị vua tu thành Phật hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Phật. Khi còn ở ngôi báu ngài có 16 vương tử, khi nghe ngài đã thành Phật, 16 vị vương tử nầy liền xuất gia theo Phật Ðại Thông Trí Thắng tu hành, được Phật giảng dạy kinh Pháp Hoa, về sau cả 16 vị vương tử này đều thành Phật. Có hai vị là Phật ở phương Ðông: A SúcTu Di Ðính, hai vị là Phật ở Ðông Nam : Sư Tử ÂmSư Tử Tướng, hai vị là Phật ở phương Nam : Hư Không Trụ và Thường Diệt, hai vị là Phật ở Tây Nam : Ðế Tướng và Phạm Tướng, hai vị là Phật ở phương Tây : A Di Ðà và Ðộ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não, hai vị làm Phật ở Tây Bắc : Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Thần Thông và Tu Di Tướng, hai vị làm Phật ở phương Bắc là Vân Tự TạiVân Tự Tại Vương, một vị là Phật ở Ðông Bắc : Hoại Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não và vị thứ 16 chính là đức Thế Tôncõi Ta Bà này.

2. Kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi lại việc xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại núi Kỳ Xà Quật, do ngài cảm ứng lời cầu nguyện của hoàng thái hậu Vi Ðề Hy bị vua A Xà Thế biệt giam ở cấm thất, ngài bảo đức Mục Kiền Liên cùng ngài A Nan đến đó, còn đức Thế Tôn hiện thân nơi ấy, giảng dạy cho bà Vi Ðề Hy phương pháp tu để giải thoát khỏi cảnh giới Ta Bà, bà Vi Ðề Hy nhờ thần lực của đức Thế Tôn, bà đã được thấy suốt nhiều cảnh giới, nhưng bà chọn cảnh giới Cực Lạc. Ðó là cảnh giới của đức Phật A Di Ðà, gồm có 9 phẩm. Ðức Phật đã dạy cho Bà Vi Ðề Hy phép Quán Vô Lượng Thọ (Vô Lượng Thọ là sống lâu mãi mãi, cũng là một trong 12 danh hiệu tôn xưng đức Phật A Di Ðà).

Tưởng cũng nên nói qua nhân duyên Phật độ cho bà Vi Ðề Hy, hoàng hậu của Tần Bà Sa, mẹ của vua A Xà Thế. Thời gian thái tử Tất Ðạt Ða còm tìm thầy học đạo, có đến thành Vương xá, là kinh đô vương quốc Ma Kiệt Ðà do Bình Sa Vương cai trị, Bình Sa Vương thấy ngài là một tu sĩtướng mạo cao quý, nên có đến thăm viếngyêu cầu khi nào Thái Tử đắc đạo, mời trở lại viếng thăm vương quốc Ma Kiệt Ðà. Do đó sau khi thành đạo chẳng bao lâu và sau khi đã độ ông Ca DiếpMục Kiền Liên, đức Thế Tôn đã sớm trở lại vương quốc Ma Kiệt Ðà để độ cho Bình Sa Vương, lần gặp gỡ nầy, đức Thế Tôn giảng kinh Túc Sanh Truyện, Bình Sa Vương nghe qua chứng được quả Tu Ðà Hoàn và ngài đã cúng dường rừng trúc để xây dựng Trúc Lâm Tịnh Xá.

Trước kia, khi Hoàng hậu Vi Ðề Hy chưa có con, vua Bình Sa Vương đã đi lễ nhiều nơi để xin thần nhân giúp cho, một hôm có vị thầy tướng cho vua biết, ở ngọn núi Phú Lâu Na có bậc tiên nhơn đạo đức, sau ba năm nữa sẽ thác sanh làm con vua. Vì muốn sớm có con sau đôi ba phen thỉnh cầu mà không được, lần chót vua ra lệnh cho sứ hóa kiếp tiên nhân để sớm đạt được ý nguyện của mình. Do đó trước khi chết, tiên nhân phát nguyện : "Ngày nay vua dùng tâm và miệng sai người giết tôi, nếu tôi sanh làm con vua, cũng dùng tâm và miệng sai người giết vua". Chưa sanh mà đã có oán thù, cho nên A Xà Thế còn có tên là Vị Sanh Oán.

Khi đức Thế Tôn đã cao tuổi, Ðề Bà Ðạt Ða anh ruột của ngài A Nan, muốn thống lãnh Tăng đoàn, yêu cầu Phật truyền cho ông ngôi vị ấy, Phật biết Ðề Bà Ðạt Ða không xứng đáng nên chẳng khứng cho, Ðề Bà Ðạt Ða mới liên kết xúi dục Thái tử A Xà Thế cướp ngôi vua cha. Bình Sa Vương dẹp yên, biết con muốn làm vua, chẳng những không bắt tội mà ngài lại truyền ngôi cho A Xà Thế. Lên ngôi xong, A Xà Thế ra lệnh hạ ngục vua cha, không cho ăn uống, nhưng bà Vi Ðề Hy đã vào thăm và lén giấu thức ăn trong người để tiếp tế cho Bình Sa Vương, biết được việc nầy, A Xà Thế hạ lệnh giam Vi Ðề Hy ở cấm cung. Chính ở nơi đây, bà đã cầu nguyện đức Thế Tôn chỉ cho biết nguyên nhân, và dạy cho bà cách tu để thoát khỏi cảnh khổ ở thế gian nầy. Ấy là nguyên do Ðức Thế Tôn giảng Quán Vô Lượng Thọ Kinh.

Còn A Xà Thế, sau khi giam mẹ, ông sai người thợ cạo vào ngục thất để giết vua cha, liền sau đó ông được tin mình có con đầu lòng, lúc ấy ông mới biết tình cha con, ông vào cấm thất hỏi mẹ về tình cảm của vua cha đối với ông, bà Vi Ðề Hy đã kể lại những tình cảm cao cả Bình Sa Vương đã dành cho ông, ông hối hận truyền lệnh thả vua cha, nhưng lệnh của ông đã đến chậm hơn nhiệm vụ của người thợ cạo phải thi hành. Nhân quả đã xong. Ðể răn dạy người tu hành, những hành vi của Ðề Bà Ðạt Ða và vua A Xà Thế đối với Phật và cha mẹ trở thành ngũ nghịch tội, ai mắc phải, bị đọa vào ngục vô gián. Theo kinh Pháp Hoa, Phẩm Ðề Bà Ðạt Ða, đức Thế Tôn cho biết ở một tiền kiếp, Ðề Bà Ðạt Ða đã truyền dạy cho ngài kinh Pháp Hoa, nên ngài đã thọ ký cho Ðề Bà Ðạt Ða thành Thiên Vương Như Lai sau nầy. Còn vua A Xà Thế về sau thành một vị hộ pháp đắc lực, nhất là ông đã yểm trợ cho công cuộc Kiết Tập Kinh Ðiển lần thứ nhất.

Quán Vô Lượng Thọ kinh, đức Phật giảng 16 phép quán tưởng, để được vào Chín Phẩm của đức Phật A Di Ðà, đó là cõi cực lạc hay tịnh độ, nhưng Quán là pháp tu Thiền, Cho nên Quán Vô Lượng Thọ Kinh là pháp Thiền của Tịnh độ. Kinh nầy cũng còn được gọi là Thập Lục Quán Kinh.

3. Kinh A Di Ðà, chúng ta thường tụng trong các khóa lễ Cầu siêu, kinh nầy Phật giảng cho ông Xá Lợi Phấtđại chúng tại Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên, trong kinh nầy đức Phật đã mô tả sơ lược cảnh giới của đức Phật A Di Ðà, khuyên mọi người tu để được vãng sinh về cảnh giới ấy, cương yếu là đoạn kinh sau đây:

- Ông Xá Lợi Phất! Nếu có người trai lành, người gái thảo nào nghe nói về đức Phật A Di Ðà, cố gắng chuyên trì tên hiệu Ngài: hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng chẳng loạn, thì người ấy khi lâm chung sẽ được đức Phật A Di Ðà cùng các bậc Thánh, hiện ra trước người ấy, người ấy khi chết tâm không điên đảo, liền được sinh sang cõi nước cực lạc của đức Phật A Di Ðà.

Có thể nói đây là đoạn quan trọng, chính yếu để phát triển pháp môn Niệm Phật của tịnh độ tông. Kinh Vô Lượng Thọ được gọi là Ðại Bổn A Di Ðà nên kinh này còn được gọi là Tiểu Bổn A Di Ðà.

Căn cứ vào ba kinh: Vô Lượng Thọ (Khang Tăng Khải đời Tào Ngụy dịch), Quán Vô Lượng Thọ (Cương Lương Da Xá, đời Lưu Tống dịch), A Di Ðà (Thiên Thân soạn, Cưu Ma La Thập, đời Diêu Tần dịch) và bộ Luận Vãng Sanh Tịnh Ðộ (Thế Thân trước tác, Bồ Ðề Lưu Chi dịch), ngài Tuệ Viễn (334-416) xiển dương Quán Tưởng Niệm Phật, lập dựng nên tông phái Tịnh độ. Khác với Thiền Tôngtruyền thừa, Tịnh Ðộ Tông tôn vinh những vị chứng quả thành Tổ, Phật giáo Trung Quốc đã tôn vinh ngài Tuệ ViễnSơ Tổ Tịnh Ðộ Tông, và lần lượt tôn vinh các vị Tổ Tịnh Ðộ Tông như sau 1) Tuệ Viễn, 2) Thiện Ðạo, 3) Thừa Viễn, 4) Pháp Chiếu, 5) Thiếu Khang, 6) Diên Thọ tự Xung Huyền, hiệu Trí Giác, 7) Tỉnh Thường tự Thứu Vi, 8) Châu Hoằng tự Phật Huệ, hiệu Liên Trì, 9) Trí Húc tự Ngẫu Ích, 10) Hành Sách, 11) Thật Hiền tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, 12) Tế Tỉnh tự Triệt Ngộ, 13) Ấn Quang

B.- Cảnh Giới Cực Lạc:

Về cảnh giới Cực Lạc, nó không phải là Niết bàn tịch tĩnh, theo như trong kinh A Di Ðà diễn tả:

- Này ông Xá Lợi Phất! Sao cõi kia lại gọi là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong nước ấy không có những sự đau khổ, chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà thôi, nên gọi là Cực Lạc.

- Lại nữa, ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy trùng bao lơn, bảy trùng lưới giăng, bảy trùng hàng cây, những trùng đó đều bằng bốn thứ ngọc báu, vây bọc chung quanh. Thế nên nước kia gọi là Cực Lạc.

- Lại nữa, ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bằng bảy thứ ngọc báu, nước tám công đức tràn đày trong ao ấy. Ðáy ao thường lấy cát vàng rải khắp mặt đất. Ðường và bực bốn bên ao đều hợp thành bởi vàng, bạc, lưu lypha lê. Trên ao có những lâu các cũng đều trang nghiêm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não. Trong ao có những hoa sen lớn như bánh xe. Hoa sen xanh tỏa ra ánh sáng xanh, hoa sen vàng tỏa ra ánh sáng vàng, hoa sen đỏ tỏa ra ánh sáng đỏ, hoa sen trắng tỏa ra ánh sáng trắng, các hoa sen ấy đều có những hương vị thanh khiết vi diệu.

- Này ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

- Lại nữa, ông Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật A Di Ðà kia, thường trổi những âm nhạc cõi trời; đất bằng vàng ròng và ngày đêm sáu thời thường mưa xuống những hoa mạn đà la cõi trời. Chúng sanh trong cõi nầy cứ sáng sớm ra, họ thường đem những lẵng hoa quí, cúng dường mười vạn ức Phật ở các phương khác, mà chỉ trong giây lát, họ đã về ngay tới nước của họ, kịp bữa ăn sáng. Ăn xong họ đi kinh hành.

- Ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

- Lại nữa, ông Xá Lợi Phất! Nước kia thường có các giống chim có màu sắc sặc sỡ, đẹp lạ như : chim bạch hạc, chim khổng tước, chim anh vũ, chim xá lợi, chim ca lăng tần già, chim cộng mệnh. Các loại chim ấy, ngày đêm sáu thời hót ra những tiếng hòa nhã. Trong những tiếng ấy diễn tỏ những diệu pháp như năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo phần. Những diệu pháp như thế, chúng sinh trong cõi nầy, nghe được tiếng pháp ấy rồi, hết thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

- Ông Xá Lợi Phất! Ông chớ nên bảo rằng các giống chim nầy do tội báo mà sinh ra. Sở dĩ thế là vì sao? Là vì cõi nước của đức Phật A Di Ðà kia không có ba đường ác.

- Ông Xá Lợi Phất! Cõi nước đức Phật A Di Ðà còn không có tên gọi ác, huống là có ác thực ư ? Các giống chim ấy đều do đức Phật A Di Ðà muốn cho tiếng pháp lan rộng, nên ngài biến hóa ra như vậy.

- Ông Xá Lợi Phất! Cõi nước đức Phật A Di Ðà kia có những làn gió hiu hiu thổi rung các hàng cây báu, cùng những mạng lưới báu, phát ra những tiếng vi diệu, ví như trăm nghìn thứ âm nhạc, đồng thời trổi lên.

- Ai nghe được những tiếng ấy, tự nhiên đều sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

- Ông Xá Lợi Phất! Cõi nước đức Phật A Di Ðà thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Ðó là cảnh giới Cực Lạc theo kinh A Di Ðà, còn theo kinh Vô Lượng Thọ, tỳ kheo Pháp Tạng có 48 lời nguyện, khi nào 48 nguyện nầy thành tựu ngài mới thành Phật A Di Ðà, ngược lại tỳ kheo Pháp Tạng sau nầy đã chứng quả tức là 48 lời nguyện ấy đã thành tựu, đó cũng là cảnh giới của đức Phật A Di Ðà: (Có thể đọc 48 lời nguyện theo thể văn vần của Kinh Bốn Mươi Tám Lời Nguyện trong Nghi Thức Tụng Niệm).

1.- Tôi thành Phật rồi, nguyện độ cho nhân dân trong nước tôi tránh khỏi ba đường Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu không được vậy, tôi quyết chẳng thành Phật

2.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho những ai sanh vào nước tôi, đều tránh khỏi sự đọa lạc vào các hàng Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu chẳng được vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

3.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều đồng một sắc như vàng ròng. Nếu không được vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

4.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều xinh lịch như nhau cả, chớ chẳng có sự chênh lệch người đẹp, kẻ thô. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

5.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều đặng Túc mạng thông, tức là rõ thấu ngàn muôn kiếp trước, nếu có ai quán tưởng mà không nhớ đuợc vô số kiếp, tôi quyết chẳng thành Phật.

6.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều đặng Thiên nhãn thông. Nếu có ai trông ra không thấy ngàn muôn và vô số cõi Phật, tôi quyết chẳng thành Phật.

7.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều đặng Thiên nhĩ thông. Nếu có ai không nghe ra tiếng của chư Phật thuyết pháp trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, tôi quyết chẳng thành Phật.

8.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều đặng Tha tâm thông. Nếu có ai không nhận ra tâm niệm của chúng sanh, tôi quyết chẳng thành Phật.

9.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư thiên trong nước tôi đều đặng Thần tức thông. Nếu có ai trong một niệm mà chẳng vượt qua ngàn muôn và vô số cõi Phật, tôi quyết chẳng thành Phật.

10.-Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều chẳng hề có ý vọng tưởng về tài sản mình, cho đến chẳng có lòng tham chấp cái thân thể mình. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

11.-Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều đắc được Pháp thân, tức là chắc quyết vào Pháp Phật thấu lý tuyệt đích và tu riết tới để nhập Ðại Niết Bàn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

12.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho hào quang tôi chói sáng khắp trong nước tôi và chói khắp vô số cõi khác, chúng sanh trong các cõi trông thấy hào quang ấy, đều lánh dữ theo lành. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

13.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho đời sống của tôi dài dặc vô hạn, nếu thọ mạng tôi không đến ngàn muôn và vô số kiếp, tôi quyết chẳng thành Phật.

14.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho số Thanh Văn đệ tử trong nước tôi kể đếm không xiết; kể cho tất cả chư tu thành Phật, Duyên Giác trong ba ngàn cõi thế đếm mãi trong ngàn muôn và vô số kiếp cũng không đếm hết số Thanh văn đệ tử của tôi. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

15.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi sống lâu không kể xiết, trừ khi phát nguyện thọ sanh qua cõi khác. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

16.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho trong nước tôi chẳng ai biết tới những tiếng chỉ sự hung dữ tội ác. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

17.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho vô số chư Phật trong các cõi thập phương đều xưng tán danh hiệu tôi, ngợi khen công đức tôi và cõi Phật của tôi, khiến cho đệ tử nguyện sanh về nước tôi. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

18.- Tôi thành Phật rồi, nguyện rằng tất cả chúng sanh trong mười phương nếu đem lòng tin tôi, cầu về nước tôi và dẫu niệm danh hiệu tôi vừa đủ mười lần, thì tôi cũng rước ngay. Duy trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch và hủy mạ Chánh Pháp. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

19.- Tôi thành Phật rồi, nguyện rằng những chúng sanh trong mười phương đã phát tâm tu hành cho thành chánh giác, nếu nghe được danh hiệu tôi, lấy lòng thành tíntrong sạch mà niệm tưởng tôi để sanh về nước tôi, thì khi họ lâm chung, tôi dắc đại chúng hiện đến trước mặt họ mà tiếp dẫn họ. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

20.- Tôi thành Phật rồi, nguyện rằng những chúng sanh trong mười phương nếu nghe danh hiệu tôi, thường nhớ đến nước tôi, dốc lòng làm các việc công đức để sanh về nước tôi, thì họ được mãn nguyện ngay. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

21.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi, tất cả đều đủ ba mươi hai tướng quí. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

22.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chúng sanh các cõi sanh vào nước tôi đều đắc đặng bực Nhứt Sanh Bổ Xứ, tức là chỉ còn sanh có một lần vào cõi nào thì đặng thành Phật hoàn toàn; trừ chư Bồ Tát lập Ðại nguyện đưa độ chúng sanh cho đến Niết Bànquyết lòng ra đi phụng sự chư Phật, hổ trợ Chánh Pháp. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

23.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho Bồ tát trong nước tôi có thể lướt qua các cõi mà cúng dường cho ngàn muôn và vô số chư Phật, kế trở về nước cho kịp bửa ăn ngọ . Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

24.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi muốn có bất kỳ vật chi như vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, các thứ châu ngọc, mọi đồ trang điểm như hương, hoa, tua, tuội, phấn sáp, mạt hương, áo quần, dù lọng, cờ phướn, đèn, các điệu múa, hát, âm nhạc, thì tất cả đều hiện lại liền theo ý muốn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

25.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho người trong nước tôi đều có đủ trí tuệgiảng diễn nghĩa lý Phật Pháp cho đến chỗ viên mãn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

26.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi, thân sức cứng rắn như hạt kim cương (của đức Narayana). Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

27.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho không một chúng sanh nào có thể biết cõi tôi nghiêm trang tịnh diệu tới đâu, dẫu cho ai có thiên nhãn cũng không thể biết hết công đức của cõi tốt đẹp vô cùng của tôi . Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

28.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho rằng bất kỳ vị Bồ Tát nào trong nước tôi, dầu kém công đức cũng dòm thấy cây Bồ Ðề (Bửu thọ) của tôi đẹp đẻ, nghiêm trang và cao cả ngàn do tuần. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

29.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chúng sanh trong nước tôi thọ trì, đọc tụng kinh điển, đều hiểu rõ nghĩa lý cho đến chỗ viên mãn, hầu có diễn giảng ra một cách minh bạch . Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

30.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi đều có tài thuyết pháp một cách hùng biện và làu thông vô hạn lượng. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

31.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho nước của tôi trở nên thanh tịnhsáng suốt. Chư Bồ Tát trong nước tôi ngồi trông ra thấy được ngàn muôn và vô số cõi Phật khác, cũng như nhìn vào gương mà thấy hình. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

32.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho trong nước tôi từ đất bằng cho chí hư không, đều có những cung điện, lầu các, cây hoa, ao suối quí báu vô giá làm bằng các thứ hương thơm, mùi hương bay ra khắp các cõi thế giới, khiến cho ai ngửi vào cũng đem lòng thờ kính chư Ðại Bồ Tátchư Phật Như Lai. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

33.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong ngàn muôn và vô số cõi Phật nếu được hào quang tôi chạm vào mình, thì thân tâm tôi trở nên hiền lành vui sướng hơn các bực Thiên và người. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

34.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi, thì được thoát khỏi luân hồi, được đắc các cảnh Tam muội cao siêu cho đến thành đạo Bồ đề. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

35.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho hàng phụ nữ trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi, bèn ra sức tinh tấntrì niệm, phát tâm tu đến thành chánh giác, nhàm chán sự luân hồi làm thân phụ nữ, như vậy nếu về sau có sanh ra nữa, thì khỏi mang thân phụ nữ. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

36.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật trong mười phương, hễ nghe danh hiệu tôi, thì đời nào sanh ra cũng lo tu hành mãi cho đến khi thành Phật. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

37.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật mười phương, hễ nghe danh hiệu tôi, bèn cung kính lễ báithờ phụng tôi; trong khi hành phận sự Bồ Tát, các Ngài ấy được loài ngườichư Thiên kính mến. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

38.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi, nếu muốn mặc y phục thì liền có y phục hiện đến ngay, y phục nhiệm mầu vốn sức linh của Phật ban cho, không có đường may, không thể dính dơ, không hề hư cũ. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

39.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi đều được vui sướng cũng như bậc Tỳ kheo đắc Ðạo diệt được các mối khổ não nơi mình. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

40.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho loài ngườichư Thiên trong nước tôi, tùy ý muốn thấy đức Phật nào trong mười phương vũ trụ, cứ nhìn vào cây Bồ đề phía ấy thì thấy ngay. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

41.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi thì ngũ quantri giác trở nên mạnh mẽ đều đủ luôn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

42.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi thì đắc các phép Thiền Thanh Tịnh Giải Thoát Tam Muội (Suvibhaktavati), đắc pháp thiền nầy trong khoảng vài giây lát, các ngài ấy có thể cúng dường hằng hà sa số chư Phật trong các cõi, mà sự thiền định không bị gián đoạn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

43.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Thiên và người trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi, thì đắc phước đức, mỗi khi lâm chung thì sanh ra nơi những gia đình tôn quí; như vậy mãi cho đến khi thành Phật. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

44.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, nghe danh hiệu tôi, thì công đức được gia tăng thêm mãi cho đến đắc quả Bồ đề trọn vẹn, trong khi tu hạnh Bồ Tát, các ngài ấy bao giờ cũng vui sướng, an lạc luôn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

45.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi, thì đắc phép thiền Phổ Ðẳng Tam Muội (Samantamugata); đắc phép thiền nầy, các ngài ấy có thể đến viếng thăm và cúng dường từng đức Phật trong vô số đức Phật mười phương, như vậy mãi cho đến khi thành Phật, mà không bào giờ sự thiền định của các ngài bị gián đoạn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

46.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong nước tôi, hễ muốn nghe Pháp chi, thì liền được nghe Pháp ấy. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

47.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong nước tôi và vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi, thì trở nên bất thối chuyển đối với quả Phật Thế Tôn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

48.- Tôi thành Phật rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh hiệu tôi, thì đắc được phép ba lần nhẫn, các ngài ấy không xao lãng đói với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.

Hòa Thượng Trí Thủ tóm tắc cõi cực lạc như sau, tối thiểu phải có những điều kiện về nhân dânthổ địa:

  1. Về nhân dân (chúng sanh thế gian):

1) An lạc vô bệnh.
2) Thọ mạnh lâu dài
3) Thân tướng đẹp đẻ.
4) Không có sự bất bình đẳng về giàu nghèo, sang hèn.
5) Tâm tánh nhu hòa, đạo đức cao thượng.
6) Ðạo tâm kiên cố.
7) Mọi người đều do hóa sanh mà có, không do thai sanh là kết quả của dâm dục, ô trược.
8) Không có sự sai khác về nhỏ lớn già trẻ, mạnh yếu.
9) Không nhơ bẩn, ô uế.
10) Tâm trí phóng khoáng, thông đạt.
11) Hết luân hồi trong lục đạo.
12) Ðủ sáu món thần thông.
13) Ðầy đủ huệ nhãn, chánh kiến,

  1. Về thổ địa (khí thế gian):

1) Ðất đai bằng phẳng, đầy châu ngọc trong suốt, không có khe hố, núi gò lởm chởm và ao rãnh sông ngòi hủng hê.
2) Không có các nạn thiên tai như lụt bão, sắm sét, đại hạn, địa chấn, gây ra mất mùa, đói rét.
3) Bầu trời luôn luôn quang đãng, không cần ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn nến.
4) Tất cả vật dụng luôn luôn mới mẻ, không vở, không hư, không mục nát, không cũ nhớp.
5) Phong cảnh xinh tươi, cây hoa đẹp đẽ, lầu gác mỹ lệ, không cần nhọc công kiến trúc trang hoàngtự nhiên hiện thành.
6) Khí trời luôn luôn mát mẻ.
7) Âm nhạc nhiệm mầu tự nhiên hay ngưng dứt tùy theo sở thích người nghe.
8) Không có động vật nào khác, ngoài loài người, trừ sự biến hóa của Phật.
9) Hồ nước trong, thơm ngọt ngào, cạn sâu ấm mát tùy từng sở thích.
10) Cảnh vật tiếp xúc gây được khoái cảm nhẹ nhàng mà không làm chao động đạo niệm.
11) Bảy báuvật dụng tự nhiên thành tựu để cung ứng đầy đủ mà không cần đến sức người.
12) Không có các sự trần lao phiền não.
13) Không có nạn nhân mãn, mặc dù dân số vãng sanh mỗi ngày mỗi tăng.
14) Nhân dân sống trong thái bình an lạc.

Chúng ta ai cũng biết rằng cõi Cực Lạc do đức Phật A Di Ðà làm giáo chủ, A Di Ðà gồm có hai nghĩa chánh nằm trong đoạn kinh A Di Ðà sau đây :

Ông Xá Lợi Phất! Ðức Phật A Di Ðà Kia có vô lượng ánh sáng, soi khắp cõi nước mười phương mà không bị chướng ngại gì cả, vì vậy có tên hiệu là A Di Ðà. Lại nữa, ông Xá Lợi Phất! Thọ mệnh của đức Phật A Di Ðà kia, cùng thọ mệnh của nhân dân nơi cõi ngài dài vô lượng vô biên vô số kiếp, nên gọi là A Di Ðà.

Thường chúng ta xưng tụng danh hiệu ngài như sau : Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật hay A Di Ðà Phật, thật ra ngài có đến 13 anh hiệu tôn xưng sau đây:

1.- Vô Lượng Thọ Phật: Ðời sống của Phật dài lâu vô lượng.
2.- Vô Lượng Quang Phật: Hào quang trí huệ Phật nhiều không thể lường.
3.- Vô Biên Quang Phật: Hào quang Phật chiếu sáng không biết đến đâu là cùng.
4.- Vô Ngại Quang Phật: Hào quang Phật chiếu khắp mọi nơi, không bị chướng ngại nào ngăn cản.
5.- Vô Ðối Quang Phật: Không có hào quang Phật nào đối chiếu sánh bằng.
6.- Viêm Vương Quang Phật: Hào quang Phật túa sáng hơn hết.
7.- Thanh Tịnh Quang Phật: Hào quang Phật chiếu ra rất thanh tịnh.
8.- Hoan Hỷ Quang Phật: Hào quang Phật chiếu ra làm cho người nhận được sẽ rất hoan hỷ.
9.- Trí Huệ Quang Phật: Hào quang của Phật chiếu sáng tới đâu quét sạch vô minh, tăng trưởng trí huệ.
10.- Bất Ðoạn Quang Phật: Hào quang của Phật chẳng hề bị đứt đoạn.
11.- Nan Tư Quang Phật : Hào Quang của Phật không ai có thể suy xét cho cùng tận, trừ có chư Phật.
12.- Vô Xưng Quang Phật: Hào Quang của Phật không có lời nào xưng tụng cho đầy đủ.
13.- Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật: Hào quang của Phật sáng hơn sức sáng của mặt trời, mặt trăng.

cõi Ta Bà này có 6 đường là : Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc Sanh, Người, A tu la và Trời và bốn bậc thánh là Thanh Văn, Bồ Tát, Duyên Giác và Phật lập thành mười pháp giới. Còn ở cõi Cực Lạc có ba bậc : Thượng, Trung, Hạ; mỗi bậc lại có ba phẩm, cộng chung thành chín phẩm, mọi người được sinh về cảnh giới nào cũng vậy, khi hoa sencảnh giới ấy nở ra thì người đó sanh ra, tiếp tục tu thì tiến hóa lên, nếu không tinh tấn niệm Phật thì sẽ bị giáng xuống cõi thấp hơn.

Theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, những điều kiện tu hành để được về các phẩm ấy được đức Thế Tôn dạy từ pháp quán thứ 14 đến 16 như sau:

14) Quán Sanh Về Thượng Phẩm:

Ðức Phật bảo A Nan và Vi Ðề Hy: “Thượng phẩm Thượng Sanh là thế nào? Nếu chúng sanh muốn sanh về cõi kia, nên phát ba thứ tâm, là tâm chí thành, tâm sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện, tất sẽ được vãng sanh. Lại có ba hạng hữu hình được sanh về Cực Lạc: Một là hạng có lòng xót thương, không giết hại, giữ tròn các giới hạnh. Hai là hạng đọc tụng kinh điển Phương Ðẳng Ðại Thừa. Ba là hạng tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện sanh về An Dưỡng. Nếu đủ các công đức như thế, từ một ngày cho đến bảy ngày, liền được vãng sanh.

Do kẻ ấy tinh tấn dõng mãnh, nên lúc vãng sanh Phật A Di Ðà cùng hai Bồ Tát Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn Thanh Văn Tỳ Kheo đại chúng, vô lượng chư Thiên và cung điện thất bảo đều hiện đến. Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát bưng đài Kim Cang, cùng Ðại Thế Chí Bồ Tát tới trước hành giả. Phật A Di Ðà phóng đại quang minh chiếu đến thân người vãng sanh, rồi cùng chư Bồ Tát đồng đüa tay tiếp dẫn. Hai vị đại thánh Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí lại cùng vô số Bồ Tát đồng thanh khen ngợi, khuyến tấn. Hành giả mục kích cảnh ấy rồi, sanh tâm vui mừng khấp khởi, tự thấy mình ngồi trên đài kim cang, theo sau Phật và Thánh chúng, trong khoảng khảy ngón tay, sanh về Cực Lạc.

Khi đã sanh về cõi kia, lại thấy kim thân của Phật đầy đủ các tướng, chư Bồ tát sắc tướng cũng cụ túc trang nghiêm; các ánh sáng và rừng báu đều diễn thuyết pháp mầu. Hành giả nghe xong liền, liền ngộ vô sanh pháp nhẫn, trong giây phút thừa sự chư Phật khắp mười phương, được thọ ký trước chư Phật, rồi trở về bản quốc, chứng vô lượng trăm ngàn môn Ðà La Ni. Ðây gọi là Thượng phẩm Thượng Sanh.

Thượng Phẩm Trung Sanh là thế nào? Có chúng sanh tuy không thọ trì kinh Phương Ðẳng, nhưng khéo hiểu nghĩa thú, đối với đệ nhất nghĩa, tâm không kinh động, tin sâu ly nhân quả, không phỉ báng pháp Ðại thừa. Nếu hành giả đem công đức niệm Phật hồi hướng, cầu sanh Cực Lạc, thì khi lâm chung Tây Phương tam thánh cùng vô lượng đại chúng quyến thuộc bưng đài tử kim, hiện đến trước mặt khen rằng : “Pháp tử ! Ngươi tu Ðại Thừa, hiểu Ðệ nhất nghĩa, nên nay ta đến tiếp nghinh”. Liền đó, đức Vô Lượng Thọ Thế tôn cùng với một ngàn hóa Phật đồng thời đưa tay xuống tiếp dẫn. Bãy giờ hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chấp tay khen ngợi chư Phật, rồi trong khoảnh một niệm liền sanh về nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc.

Ðài tử kim ấy như hoa báu lớn, trải một đêm liền nở, bấy giờ hành giả thân sắc tử kim, dưới chơn lại có hoa sen thất bảo, được Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang soi đến mình, mắt liền mở sáng. Do tu tập trước kia, lúc đó tự nghe các âm thanh khắp nơi đều nói thuần pháp Ðệ nhất nghĩa đế rất thâm mầu. Nghe xong liền bước xuống kim đài lễ Phậtchấp tay ca ngợi đức Thế Tôn. Trải qua bảy ngày liền được không thối chuyển nơi quả A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, có thể tự tại bay đi khắp mười phương thừa sự chư Phật, tu các môn tam muội. Như thế qua một tiểu kiếp, được chứng vô sanh nhẫn và mong chư Phật thọ ký. Ðây là cảnh Thượng phẩm Trung sanh.

Thượng phẩm Hạ sanh là thế nào? Có chúng sanh tuy cũng tin nhân quả, không báng Ðại thừa, nhưng chỉ phát tâm cầu đạo vô thượng, rồi đem công đức ấy niệm Phật nguyện về Cực Lạc. Hành giả ấy khi lâm chung được Phật A Di Ðà, Quán Thế Âm, Ðại Thế chí cùng chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng, hóa hiện năm trăm vị Phật đến nghinh tiếp. Lúc đó năm trăm hóa Phật đồng thời đưa tay xuống và khen rằng: “Pháp tử! Ngươi nay thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, nên ta đến rước ngươi”.

Khi hành giả mục kích cảnh ấy rồi, liền thấy mình ngồi nơi hoa sen vàng, ngồi xong cánh hoa khép lại, theo sau đức Thế tôn sanh về ao thất bảo. Như thế trải qua một ngày đêm, hoa sen nở ra, bảy hôm sau mói được thấy Phật. Nhưng tuy thấy Phật, đói với các tướng hảo tâm còn chưa rõ ràng, đợi qua hai mươi mốt ngày, mới nhận được minh bạch. Bãy giờ người vãng sanh nghe các âm thanh đều diễn pháp mầu, bay dạo mười phương cúng dường chư Phật, và được nghe pháp thậm thâm trước các đức Thế tôn. Trải qua ba tiểu kiếp như thế, được bách pháp minh môn, trụ Sơ hoan hỷ địa. Ðây là cảnh Thượng Phẩm Hạ sanh.

Trên đây là môn tưởng Thượng bối vãng sanh, thuộc về phép quán thứ mười bốn.

15.- Quán Sanh Về Trung Phẩm

Ðức Phật bảo A nan và Vi Ðề Hy: “Trung phẩm Thượng sanh là thế nào ? Nếu chúng sanh thọ trì ngũ giới, giữ Bát quan trai hoặc tu các giới khác, không tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, rồi đem căn lành ấy hồi hướng cầu sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Chúng sanh đó khi lâm chung, được Phật A Di Ðà cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vi nhiễu, phóng kim quang soi đến mình, diễn thuyết các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, cùng khen ngợi hạnh xuất gia thoát khổ. Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh tâm vui mừng, tự thấy mình ngồi trên đài sen, vội quì gối chấp tay cuối xuống lễ Phật. Lúc chưa ngước mặt lên, đã sanh về thế giới Cực Lạc.

Sau khi vãng sanh, vừa lúc hoa sen nở ra, hành giả nghe các âm thanh khen ngợi pháp Tứ đế, liền chứng quả A La Hán, đầy đủ tam minh, lục thôngbát giải thoát. Ðây là cảnh Trung phẩm Thượng sanh.

Trung phẩm Trung sanh là thế nào? Nếu chúng sanh giữ chính chắn Bát quan trai hoặc giới Sa di hay giới Cụ túc trong một ngày đêm, các oai nghi đều toàn vẹn, đem công đức huân tu giới hương đó hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Khi lâm chung hành giả nầy thấy Phật A Di Ðà cùng quyến thuộc cầm hoa sen thất bảo phóng kim quang hiện đến trước mặt mình. Bãy giờ đương nhơn nghe giữa hư không có tiếng khen rằng: “Lành thay thiện nhơn! Ngươi đã biết thuận theo lời dạy của chư Phật ba đờitu tập, nên nay ta đến rước ngươi, Khi đó hành giả thấy mình ngồi nơi hoa sen, cánh hoa khép lại, liền được sanh về bảo trì ở cõi Cực Lạc.

Qua bảy ngày hoa sen nở, hành giả chấp tay ca ngợi Phật, được nghe pháp vi diệu, sanh tâm hoan hỷ, liền chứng quả Tu Ðà Hoàn, và nửa kiếp sau mới chứng quả A La Hán. Ðây là cảnh Trung phẩm Trung sanh.

Trung phẩm Hạ sanh là thế nào? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn hiếu dưỡng cha mẹ, tu hạnh nhân từ theo thế gian, khi lâm chung gặp thiện tri thức giảng cho nghe về sự vui nơi cõi Phật A Di Ðà và bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Tỳ kheo. Kẻ ấy nghe xong hoan hỷ niệm Phật mà qua đời, thần thức liền được sanh ngay về cõi Cực Lạc thế giới, lẹ như khoảng co duỗi cánh tay của người tráng sĩ.

Qua bảy ngày sau hành giả được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí, nghe pháp nhiệm mầu, sanh tâm vui đẹp, được quả Tu Ðà Hoàn, sau một tiểu kiếp mới chứng quả A La Hán. Ðây là cảnh Trung phẩm Hạ sanh”.

Môn tưởng nầy gọi là Trung Bối Vãng Sanh, thuộc về phép quán thứ mười lăm.

16.- Quán Sanh Về Hạ Phẩm

Ðức Phật bảo A Nan và Vi Ðề Hy: “Hạ phẩm Thượng sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh ngu tối, Tuy không hủy báng kinh điển Phương Ðẳng, nhưng tạo nhiều nghiệp ác không biết hổ thẹn, kẻ ấy khi lâm chung gặp thiện tri thức nói cho nghe danh đề của mười hai loại kinh Ðại thừa, liền được trừ diệt nghiệp ác rất nặng trong một ngàn kiếp. Bậc tri thức lại bảo phải chấp tay niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật”; do đương nhơn thành tâm xưng danh hiệu Phật nên tiêu trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử. Ngay lúc ấy, đức Vô Lượng Thọ Như Lai cảm biết, liền sai hóa Phật, hóa Quán Âm và hóa Thế Chí hiện đến trước hành giả khen rằng: “Lành thay thiện nhơn ! Ngươi đã xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đây để rước ngươi”.

Bãy giờ hành giả thấy ánh sáng của hóa Phật đầy khắp nhà mình, trong lòng vui mừng, liền xả thọ, ngồi trên hoa sen báu theo hóa Phật sanh về ao thất bảo. Sau khi vãng sanh trải qua bốn mươi chín ngày hoa sen mới nở. Vừa lúc hoa nở, Ðại bi Quán Thế Âm và Bồ Tát Ðại Thế Chí phóng ánh sáng lớn, trụ rtước người ấy, giảng thuyết cho nghe nghĩa lý thâm diệu của mười hai loại kinh ( * ). Ðương nhơn nghe rồi tin hiểu, phát tâm vô thượng bồ đề, trải qua mười hai tiểu kiếp, thành tựu bách pháp minh môn, được vào Sơ địa. Ðây là cảnh Hạ phẩm Thượng sanh.

Hạ phẩm Trung sanh là thế nào? Hoặc có chúng snh ngu tối hủy phạm ngũ giới, bát giới, giới cụ túc, trộm của Tăng kỳ và vật hiện tiền tăng, bất tịnh thuyết pháp, lòng không hổ thẹn, dùng các nghiệp ác để tự trang nghiêm. Kẻ tạo tội chướng như thế, tất phải đọa vào địa ngục, nên lúc lâm chung, các tướng lửa của Ðịa ngục đồng thời hiện ra. Nhưng người nầy may mắn được gặp thiện tri thức giảng nói cho nghe về oai đức thập lực, sức thần thông quang minh của Phật A Di Ðà, cùng những pháp : Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Ðương đơn nghe xong, sanh lòng tín trọng, nên trừ diệt tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, lửa dữ Ðịa ngục hóa thành gió mát thổi các hoa trời, trên hoa có hóa Phậthóa Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn, trong khoảng một niệm liền được sanh về hoa sen nơi ao thất bảo.

Sau khi vãng sanh trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Vụa lúc hoa nở, Bồ Tát Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí hiện đến,dùng tiếng Phạm âm an ủi và vì mà giảng thuyết pháp thậm thâm của Ðại Thừa. Hành giả nghe xong, liền phát đạo tâm vô thượng. Ðây là cảnh Hạ phẩm Trung sanh.

Hạ phẩm Hạ sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm chung, người nầy nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi, nói pháp mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Ðương nhơn tuy nghe lời dạy, song vì sự khổ bức bách, không yên rảnh để quán tưởng đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại bảo: ‘‘ Nếu ông không thể tưởng đức Phật kia, thì nên chí thành xưng ‘‘ Nam Mô A Di Ðà Phật’’ tiếng tăm liên tiếp không dứt cho đủ mười niệm ‘’. Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh hiệu Phật, nên mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Như thế mãn mười hai Ðại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị đại sĩ Quán Thế Âm. Ðại Thế Chí dùng tiếng đại bihành giả nói rộng về thật tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Ðương nhơn nghe rồi thân tâm vui đẹp, liền phát lòng vô thượng bồ đề. Ðây là cảnh Hạ phẩm Hạ sanh.

Môn tưởng trên gọi là Hạ Bối Vãng Sanh.

Ðó là chín phẩm của cõi Cực Lạc.

C.- Theo lời Phật dạy, hành pháp môn Niệm Phật như thế nào cho được thành tựu:

Thông thường chúng ta hiểu nghĩa Lục Tự Di Ðà hay Niệm Phật cầu Vãng sanh là: Nam Mô A Di Ðà Phật có nghĩa như sau:

Nam mô: Có 6 nghĩa: kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng.
A: Có nghĩa là Vô, Không
Di Ðà: Nghĩa là lượng
Phật : Người giác ngộ.

Vậy Nam mô A Di Ðà Phật là: Kính lễ đấng giác ngộ vô lượng, cũng có nghĩa là: Con quay về nương tựa vào đấng giác ngộ vô lượng.

Muốn thành tựu bất cứ pháp môn nào, người tu tập trước nhất phải có: Tín, Hạnh, Nguyện. Nghĩa là chúng ta dứt trừ các mối nghi, tin rằng : Pháp môn niệm Phật thù thắng do chính kim ngôn của đức Thế Tôn, muốn thành tựu chúng ta phải hành rốt ráo và luôn luôn có chí nguyện bền vững cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc.

Trừ pháp Thập Lục Quán, pháp môn Niệm Phật có rất nhiều chủng loại, đại thể chúng ta có thể chia thành:

  • Sổ tức niệm Phật
  • Sổ châu niệm Phật
  • Trì danh niệm Phật .

1.- Sổ tức niệm Phật: Ngồi bán già hay kiết già, xong niệm chú Tịnh pháp giới chơn ngôn:

Án lam xóa ha (3 lần)

Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn:

Án, ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần)

Kế đọc bài kệ:

Chánh thân đoan tọa,
Ðương nguyện chúng sanh.
Tọa Bồ Ðề tòa,
Tâm vô sở trước
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam Mô A Di Ðà Phật . . .

Theo đó cứ tiếp tục niệm Lục Tự Di Ðà, hơi thở vào ra giữ cho đều hòa, một hơi thở không nhất thiết là một câu niệm Phật, cần nhất là chú tâm theo dõi từng tiếng thầm niệm của mình, đừng để cho tâm duyên theo các giác quanngoại giới.

Khi mới bắt đầu với năm hay mười phút rồi mỗi tuần tăng thêm vài phút, tạo thành một thói quen dần cho thể xác và sự chú tâm, giữ cho được thoải mái, đừng gò bó cả thân lẫn tâm.

Trước khi chấm dứt niệm Phật, chúng ta chí thành cầu nguyện:

Con nguyện đem công đức niệm Phật này hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh về cõi Tịnh độ.

2.- Sổ châu niệm Phật: Là cách niệm lần chuổi, có thể ngồi kiết già, bán già trong khi công phu ngoài ra còn có thể niệm khi đi đứng nằm ngồi, trong thời công phu chúng ta nên theo cách thức sau đây :

Tịnh pháp giới chân ngôn:

Án lam xóa ha (3 lần)

Tịnh Tam Nghiệp chân ngôn :

Án, ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần)

Kế đọc bài kệ (chuỗi 108 hạt)

Bồ Ðề nhứt bá bát,
Diệt tội đẳng hằng sa.
Viễn ly tam đồ khổ,
Xuất sắc biến liên hoa.

&*&

Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba.
Dục thoát luân hồi khổ,
Cấp tảo niệm Di Ðà.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật . . .

Còn lần chuổi 18 hạt thì đọc bài như sau:

Diệu quả Bồ Ðề ly chưởng chưởng,
Thủ khai cương tỏa diệu trùng trùng.
Thập bát chuyển luân La Hán tướng,
Thiện tăng giáng phước, huệ vô cùng .. .
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật . . .

Cách lần chuỗi, cứ một câu niệm Phật, lần một hạt chuổi, khi chuỗi lần giáp vòng, lần trở ngược lại, không lần vượt qua đầu mối xâu chuỗi, nơi ấy tượng trưng cho Tam Bảo, phương pháp lần chuỗi hạt tâm ta cũng vẫn chuyên chú vào từng tiếng niệm danh hiệu, và một phần nữa chú tâm vào việc lần hạt để không cho tạp niệm chen vào, định tâm để không quên lần vượt qua đầu xâu chuỗi.

Mỗi lần trước khi chấm dứt Niệm Phật, chúng ta cần phải chí thành cầu nguyện:

Con nguyện đem công đức niệm Phật nầy hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh về cõi Tịnh độ.

3.- Chuyên niệm niệm Phật: Phương pháp nầy không cần dùng chuổi, bất cứ lúc nào ta cũng niệm Phật, niệm có tiếng, có thể ngân nga như điệu hát, có thể niệm thầm, niệm khi đi, đứng, nằm, ngồi, lúc làm việc, bất kỳ lúc nào nhớ ra thì niệm Phật, thời gian đầu dễ bị duyên theo ngoại cảnh, vọng niệm chen vào lúc niệm Phật, lúc không nhưng hễ nhớ tới thì liền niệm Phật, dần dần sẽ niệm Phật nhiều hơn. Cho đến một lúc nào đó, ta nhớ ra thì thấy tự mình đã có niệm liên tục, dường như không ngừng nghĩ đó là: Niệm Hay Không Niệm Vẫn Là Niệm, nhưng chúng ta phải ghi nhớ rằng khi mình nhớ tới niệm Phật, tự dưng thấy ta tự động đang niệm Phật, chúng ta phải chú tâm vào niệm tiếp tục, có như vậy mới đạt được Vô Biệt Niệm.

Vào những giờ nhất định nào đó, chúng ta ngưng niệm Phật để cầu nguyện:

Con nguyện đem công đức niệm Phật nầy hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh về cõi Tịnh độ.

Sau khi cầu nguyện xong, tiếp tục niệm Phật.

Sự chuyên trì niệm Phật: Một là tâm tịnh thì trí huệ sanh, hai là nhứt tâm niệm Phật thì Phật và chư Bồ Tát mới tiếp độ khi lâm chung và quan trọng nhất là niệm Phật để giữ cho tâm chẳng tán loạn khi lâm chung mới có thể vãng sanh về cõi Cực Lạc. Niệm Phật cầu vãng sanh như đã nói phải có Tín , Hạnh, Nguyện. Hạnh ấy cần phải giữ giới nhất là hành thập thiện nhờ đó ba nghiệp thanh tịnh, sự tinh tấn hành trì, sẽ trợ duyên cho đạo quả thành tựu cao hơn, ở trong chín phẩm nơi cõi Cực Lạc.

Ai cũng có thể hành trì pháp môn niệm Phật, không bị giới hạn trong hoàn cảnh nào, cho nên Niệm Phậtpháp môn thù thắng cho mọi người con Phật.

 ( * ) Mười hai loại kinh là : 1) Khế kinh. 2) Trùng tụng. 3) Thọ ký. 4) Phúng tụng. 5) Cô khởi. 6) Nhân duyên. 7) Thí dụ. 8) Bản sanh. 9) Bản sự. 10) Phương quảng. 11) Vị tằng hữu và 12) Luận nghị.

Sách tham khảo :

Liên Du Kinh Quán Vô Lượng Thọ Quan Âm Tu Viện Biên Hòa ấn tống, Biên Hòa, 1988
HT. Thích Trí Thủ Pháp Môn Tịnh Ðộ THPGTPHCM, Việt Nam, 1996
PT Khóa Lễ Cầu Siêu, Nhóm Phật Tử Louisville, Kentucky, 1993
HT. Thích Thanh Kiểm Lược sử Phật Giáo Trung Quốc, Vạn Hạnh tái bản, Sàigòn, 1965
Ðoàn Trung Còn Các Tông Phái Ðạo Phật nhà xuất bản Thuận Hóa, Việt Nam, 1995
HT. Thích Thanh Cát Những Bài Học Vô Giá Chùa Giác Minh, California, USA 1998
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 116)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 144)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 214)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 195)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 176)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 203)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 229)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 313)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 419)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 431)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 525)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 784)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 786)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 692)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 671)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 673)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 796)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 682)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 686)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 784)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 795)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 789)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 835)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 861)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1038)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 913)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1570)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1020)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1171)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 911)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1172)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1083)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1072)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1933)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1045)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1311)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1053)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1068)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1494)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1225)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1250)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 986)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1139)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1605)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant