Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

07. Nhập thất

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 15861)
07. Nhập thất

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 3: THỰC HÀNH

Nhập thất

I - Dẫn: Nhập thất là một phương pháp rốt ráo nhất, để cho chúng ta tu tập theo ngồi thiền, niệm Phật, hay trì chú... Nhiều người tu tập theo pháp môn này hay pháp môn khác chưa có hiệu quả, ấy là vì sự tu tập còn giãi đãi, chưa được tích cực, xưa nay nhiều vị chân tu vẫn thường áp dụng phương pháp nhập thất này.

Il - Phương pháp Nhập thất: Ở Việt-Nam, người ta cất một cái cốc (một căn nhà nhỏ), trong căn nhà này chỉ có giường nằm, một cái bỉnh đựng nước uống, chén đĩa dùng để ăn và uống, một cái chăn để đắp và một cái mùng để tránh muỗi, mọi thứ đều phải giản tiện tối đa. Trước khi nhập thất, người ta phải chuẩn bị thức ăn, nếu không có người giúp đỡ, người ta chỉ ăn cơm khô (cơm phơi khô), nếu có người gíup đỡ, nhờ người đem thức ăn đến cho ta hàng ngày. Ở Mỹ, chúng ta có thể dọn một căn phòng để dùng vào việc kiết thất, phòng này không nên để gì cả, tiện nghi luôn luôn tối thiểu, ngăn cách được với đời sống hàng ngày bên ngoài.

Trước khi nhập thất, chúng ta phải trai giới thân tâm, bảy ngày trước. Phải làm phép kiết giới, có nghĩa là chia giới hạn thiện ác, mê ngộ. Có nhiều cách kiết giới, nhưng cách giản dị nhất là phép kiết giới trong Chuẩn Ðề, làm như sau: Thiết một hương án (đặt một cái bàn có bát nhang, hoa quả, nước cúng, nến), lấy một cái chén mới, đựng nước (thường dùng nước mưa hứng ngoài trời hay múc giữa sông, để được tinh khiết), bỏ vào chén nước vài thứ hoa thơm, để cái chén ấy trước mặt chỗ ngồi của mình trước hương án, lên nhang đèn rồi ngồi kiết gìa, hai tay kiết ấn Chuẩn Ðề, để ngang ngực, chuyên chú một lòng ngó chén nước ấy, niệm chú Chuẩn Ðề 21 biến, rồi đem chén nước ấy rãi mười phương: đông, tây, nam, băc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới, để cho chỗ kiết thất được thanh tịnh.

Theo cách ngồi kiết già, chân trái gác trên vế chân mặt, chân mặt gác lên vế chân trái. Cách kiết ấn Chuẩn Ðề như sau: lấy tám ngón tay xỏ xéo vào lòng bàn tay, rồi nắm lại, dựng hai ngón giữa lên cho giáp với nhau, lấy hai ngón tay cái mà bấm vào lóng giữa hai ngón tay vô danh. Chú Chuẩn Ðề: Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đề, cu chi nẫm đát điệt tha. Án chiếc lệ chủ lệ Chuẩn Ðề ,ta bà ha.

Từ khi kiết giới, đối với người tu theo pháp môn niệm Phật, tập tưởng niệm Ðức Phật A Di Ðà, đến ngày nhập thất, cầu nguyện Ngài giáng xuống chứng đạo tràng, rồi lạy 100 lạy hay 50 lạy, qùy trước hương án, phát nguyện đem hết tâm chí thành niệm Phật trong 7 ngày, không để khởi một tư tưởng nào của thế gian.

Sau đó thì luôn luôn niệm Phật khi đi, đứng , nằm, ngồi, ban ngày không ngủ, ban đêm chỉ ngủ chừng 2 giờ mà thôi. Khi niệm Phật, tiếng niệm không huởn mà cũng không gấp, tâm niệm không được lảng, cũng không được mê, làm thế nào cho tâm niệm luôn luôn được rõ ràng, minh bạch.

Ðối với người tu thiền, phát nguyện mười phương chư Phật, lịch đại tổ sư thiền, trong 7 ngày nhập thất, giữ tâm thanh tịnh, không để tâm buông lung tưỡng nghĩ đến việc trần thế. Sau mỗi khi ngồi thiền xong, xả thiền thì thiền hành chừng nửa giờ, lại ngồi thiền trở lại.

Có một pháp môn, phát xuất từ Saigon-Gia Ðịnh từ mấy chục năm nay, người theo pháp môn này mỗi lần nhập thất là không ăn, chỉ uống nước chanh đường, muốn nhập thất phải có thầy truyền cho. Trong bài thiền chúng tôi có nói đến trường hợp của anh Ân, theo pháp môn này, khác với kiết thất, vì kiết thất vẫn ăn uống, nhưng nếu có thể chỉ nên ăn ngọ mà thôi, hoặc nếu cần thì cũng chỉ nên ăn vào buổi sáng và ăn ngọ.

Ðã nhập thất tức là cắt đứt mọi liên lạc với xã-hội, gia-đình để chuyên tâm tu tập ngồi thiền, trì chú hay niệm Phật nhất tâm bất loạn. Nhiều người có kinh nghiệm, ngoài việc chuyên chú tu tập đó, chúng ta phải có nguyện lực vững chắc, bởi vì kiếp này, nhiều năm nọ tháng kia, chúng ta đã sống trong xã hội, nay ta tách rời nó, nhiều chướng ngại ta sẽ gặp phải, sẽ có nhiều trường hợp nó thúc bách ta phải xả thất, không thể tiếp tục, đó là những ma chướng ngại mà chúng ta cần phải vượt qua, đề phòng những trường hợp này, chúng ta phải giải quyết mọi chuyện cho xong trước khi nhập thất, để nó khỏi lôi kéo, réo gọi chúng ta.

Chúng ta nhớ rằng ở Việt Nam, nhiều khi chúng ta đi thập tự (viếng mười cảnh chùa), hoặc khi chúng ta đi viếng một ngôi chùa nào đó, chư tăng, ni hay người trong chùa cho biết vị trụ trì đã nhập thất rồi, đương nhiên là vị ấy chẳng bao giờ ra khỏi thất cho chúng ta gặp.

Chúng tôiquen biết một đạo hữu ở số 12 đường Nguyễn thiện Thuật Saigon, nhà đạo hữu này có dành riẻng một tầng lầu để cho anh ta hoặc vợ hay bạn đạo nhập thất, có khi ba ngày, có khi bảy ngày. Riêng chị ấy đã có lần đến chùa của Thượng Tọa Thông Lạc để nhập cốc trong ba tháng mười ngày (100 ngày), cả vợ lẫn chồng đồng tu, rất thuận duyêntinh tấn.

III- Kết luận : Thọ Bát Quán Trai đã là tích cực rồi, nhưng mà nhập thất là một phương pháp rốt ráo nhất, chư tăng, ni ngoài an cư kiết hạ ra, những vị này cũng dùng phương pháp kiết thất, để cho việc tu học của họ được trang nghiêm, thanh tịnh, chóng đạt được chứng đắc pháp môn của họ tu, cho nên hàng cư sĩ tại gia chúng tađiều kiện nên kiết thất, tùy hoàn cảnh không nhất thiết phải 7 ngày đêm, có thể 1 ngày, 2 ngày lần lần tiến lên đến 7 ngày, công hạnh thành tựu nhanh hơn hết.
Ý kiến bạn đọc
10 Tháng Ba 201505:00
Khách
Con Diệu Âm Minh Hạnh hôm nay biết điều chỉ dạy này thật là một phước báu không thể nghỉ bàn. Trong tâm rất vui mừng! Ý định nhập thất nhưng có một số chướng ngại như là làm sao để một ngày ngủ 2 tiếng, làm sao chỉ ăn 2 bửa, muỗi côn trùng. Con mong có vị đại đức tận tình chỉ dạy con nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh.
Nam mô A Di Đà Phật! Diệu âm Minh Hạnh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4036)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3572)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 4929)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6516)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3893)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 3998)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5226)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3687)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4406)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3449)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3829)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4290)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5290)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3746)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3828)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3776)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4696)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4423)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4152)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3735)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4490)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4081)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 5964)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4502)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4855)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4082)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4732)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5573)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3538)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 3950)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4506)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5182)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3060)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4649)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4445)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4199)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4656)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4399)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4500)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7095)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5105)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4900)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4491)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5519)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5177)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4064)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5884)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4595)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4784)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5369)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5476)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5690)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4906)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4261)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4573)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4614)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5767)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3240)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5166)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2866)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant