Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

04. Phật giáo và phương Tây - Mối tương quan chưa rõ rệt

23 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 10592)
04. Phật giáo và phương Tây - Mối tương quan chưa rõ rệt
PHẬT GIÁO
TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
Sự canh tân của Phật giáo từ Đông sang Tây
Hoang Phong biên soạn và dịch

PHẬT GIÁO VÀ PHƯƠNG TÂY
Mối tương quan chưa rõ rệt


Phật giáo đã tìm thấy ở các nước phương Tây một không gian mới mẻ để phát triển, tuy nhiên, quá trình phát triển một nền Phật giáo phương Tây không phải là không có chướng ngạingộ nhận. (Đây là bài viết của ông Fabrice Midal đăng trong tạp chí Le Monde des Religions, số ngoại lệ 5, phát hành tháng 6, 2007, đặc diệt dành riêng cho chủ đề về Phật giáo. Đây là một tạp chí thuộc tổ hợp báo chí Le Monde. một trong những cơ quan thông tin lâu đờiuy tín của nước Pháp. Hoang Phong lược dịch và ghi chú).

Vào cuối thế kỷ XVII, nhà truyền giáo Alexandre de Rhôdes đã viết như sau trong quyển sách của ông mang tên “Cathechimus in Octo Dies Divisus” (Sách giảng dạy Giáo lý phân chia ra trong tám ngày): “Khi người ta hạ một gốc cây đốn mạt và vô bổ, những cành còn dính trên thân cây rồi cũng sẽ phải rơi xuống; tương tự như thế, khi mà tên độc ác và lường gạt Thích Ca (tức là Phật) bị đánh bại, những sóng chế tín ngưỡng tôn thờ ảnh tượng xuất phát từ đó cũng sẽ bị hủy diệt”.

Vào năm 1949, một tác giả khác là ông Alfred Foucher viết một quyển sách về cuộc đời của Phật và quyển sách này vẫn còn giữ một phần giá trị nào đó; trong quyển sách ấy tác giả đã viết thêm vào như sau: “Trừ một vài người đặc biệt hiếu kỳ về những thử nghiệm có tính cách du nhập ngoại lai, Phật giáo sẽ chỉ đón nhận được rất ít tín đồ trên xứ sở chúng ta”.

Dần dà Phật giáo được biết đến một cách cặn kẽ hơn và đã làm điêu đứng căn bản của cả nền tư tưởng phương Tây, và cũng từ đó đã sinh ra nhiều hiềm khích. Không những Phật giáo trước đây đã từng bị đối xử như một tín ngưỡng tôn thờ ảnh tượng, một thứ tôn giáo giả mạo, mà hơn thế nữa, Phật giáo lại còn bị đánh giá như một nền tư tưởng nguy hiểm, chủ trương một sự hủy diệt thật khó hiểu.

Trong khi Phật giáo bị xem như một chủ nghĩa hư vô, thì cùng lúc Tây phương lại phải đương đầu với sự băng hoại của cả một hệ thốnggiá trị đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ. Quả thật rất ít người có thể tin được rằng Phật giáo sau này sẽ hội nhập vào Tây phương. Nhưng trên thực tế, ngày nay rất nhiều những khái niệm Phật giáo đã đi thẳng vào ngôn ngữ hàng ngày của người dân, chẳng hạn như những chữ, sự khẩn thiết về lòng từ bi (I’exigence de compassion), hiện tượng vô thường (I’impermanence) (chữ này là một đặc thù của Phật giáo), nghiệp (karma) và khái niệm về sự tương liên của tất cả mọi hiện tượng (la notion d’interdépendance).

Tính cách toàn cầu

Trên thực tế, từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là trên lãnh thổ nước Pháp, Phật giáo đã bắt đầu được kính nể. Tôn giáo này được nhìn nhận như một tôn giáo không thờ trời, báo hiệu sự phát sinh của cả một kế hoạchmục đích thế tục hóa, tách nhà nước ra khỏi nhà thờ, giúp chống lại sự đô hộ của Thiên Chúa giáo, ông Jules Ferry đã từng kinh ngạcthán phục tính cách “thế tục” của Phật giáo và đã quyết định đưa Phật giáo vào các giờ giảng dạy về luân lý trong các trường học của nước Cộng hòa Pháp.

Nền luân lý nghiêm khắc của Phật giáo, không có sự hiện diện của trời như “một kẻ ban thưởng và báo thù” được ông Jules Ferry xem như một bằng chứng cụ thể cho thấy rằng không cần có sự hiện hữu của Trời, con người cũng có thể trở thành lương thiện được. Đạo đức thế tục là gì? ông Jules Ferry đã trả lời như sau: “Nền đạo đức thế tục chính là thế này đây, chính nó dã được chứng minh bằng sự kiện. Hai trăm triệu người đã noi theo nền đạo đức đó từ hai mươi ba thế kỷ nay”.

Trong lúc nước Đức còn câu nệ vào kinh sách Phệ-đà như là một tài liệu chung cho Ấn và Đức quốc, thì nền Ấn học của Pháp đã tìm thấy trong thông điệp của Phật niềm khát vọng nhắm vào sự an vui của cả nhân loại một niềm khát vọng rất gần gũi với sứ mạng của nước Pháp. Các nhà nghệ sĩ như Van Gogh và Gauguin đã tìm thấy nơi Đức Thích Ca Mâu Ni một bằng chứng về sự hoàn thiện tâm linh, chứng tỏ tính cách toàn cầu của một thể dạng thiêng liêng mà họ từng khát vọng.

Các vị thầy đầu tiên

Khởi sự từ những năm 1950, có các vị thầy thuộc Thiền phái Zen, và tiếp theo đó vào những năm 1960 là các vị thầy Tây Tạng, họ tiếp tục đến với phương Tây và đã truyền lại một cách thật tài tình những gì họ được thụ hưởng từ trước. Sự chung đụng ấy đã đánh dấu sự cáo chung của những huyễn tưởng mang tính cách thuần túy văn chương về Phật giáo, những huyễn tưởng đó đã chấm dứt, chúng không còn là những ước mơ nữa mà đã trở thành một phương pháp tu tập có thể thực hiện được, giúp cho mọi người noi theo.

Tình trạng Phật giáo ngày nay

Hiệp hội Phật giáo Pháp và Bộ Nội vụ ước tính có khoảng 600.000 Phật tử trên đất Pháp: một nửa là những người Á châu, nửa còn lại là những người Pháp chính thống. Đồng thời, người ta cũng ước tính có năm triệu người Pháp xem Phật giáo như một tôn giáo mà họ cảm thấy gần gũi nhất. Vì những lý do lịch sử của nước Pháp, Phật giáo đã thiết lập một cách vững chắc nhất trên phần đất này với hàng trăm trung tâm thiền định. Ngôi chùa Tây Tạng lớn nhất Âu châu tọa lạc ở vùng Bourgogne (Pháp quốc), và đạo tràng chính của Thiên phái zen cũng tọa lạc ở vùng Touraine (Pháp quốc).

Nhưng thật ra thì bộ mặt bên ngoài này đã che giấu những đe dọa trầm trọng. Thời kỳ tiên phong đã chấm dứt. Phật giáo đã được biết đến một cách tường tận, nhưng sự thành công của tôn giáo đó đã mở ra những hiểm nguy mới mà chính các vị thầy cũng đã đưa ra những lời cảnh cáo. Ba vấn đề sau đây cần phải được đặc biệt quan tâm.

Phật giáo bị thu gọn như một bát thuốc sắc

Phật giáo ngày càng được giảng dạy như một phương pháp trị liệu cầu kỳ và đã được khử trùng cẩn thận. Phật giáo trở thành một bài diễn văn đầy thiện cảm nhưng vô trách nhiệm. Loại Phật giáo theo kiểu “bát thuốc sắc” như thế nhắm vào việc xoa dịu những kẻ đã gởi mình vào đó. Nếu ý nghĩa tâm linh của Phật giáo chưa bị gạt bỏ một cách đơn giản, thì vị trí của nó cũng thụt hẳn vào bối cảnh phía sau. Một số các vị giảng sư đã trình bày Phật giáo như một đường hướng chỉ đạo cho sự sống, một phương thức hữu hiệu giúp ích trong công việc làm ăn, giúp đời sống tình dục nẩy nở toàn vẹn hơn, giúp có một tài khoản ngân hàng đầy ắp hơn.

Trong khi ấy, lời giảng huấn của Đức Phật lại nhấn mạnh về sự thật của khổ đau. Phủ nhận sự thật đó, hoặc tìm cách thương lượng với khổ đau sẽ không còn đúng chút nào với những lời giáo huấn của Đức Phật.

Sự vinh quang của Phật giáo và công việc kinh doanh

Khi đưa Phật giáo vào Tây phương, các vị thấy đã cảnh giác cho biết tệ trạng băng hoại của Phật giáo ngay trên xứ sở của họ và cho thấy cần thiết phải có một cuộc cách mạng, dù rằng cách mạng trong mục đích bảo tồn lấy truyền thống mà họ đã được thừa hưởng. Tuy nhiên ngày nay, trong rất nhiều học phái, người ta thấy khuynh hướng thụt lùi lại để trở thành một thứ tín ngưỡng mang nặng giáo điều và đậm màu tăng lữ. Cái cảm tính trực thuộc vào thành phần một Tăng đoàn lại lấn lướt và trở nên quan trọng hơn là lòng quyết tâm tu tập một cách sáng suốt.

Tiếc thay, chỉ có quyết tâm tu tập một cách sáng suốt mới có đủ khả năng lột được mặt nạ và cả những hành vi đạo đức giả của những con người như chúng ta. Khái niệm về các vị đạo sư và các vị thầy đã tạo ra những cung cách xử sự ngây thơ quá độ, xa lìa với những truyền thống từ nghìn xưa. Phật giáo đã trở thành một sản phẩm thương mại cần phải mở rộng thêm thị trường.

Một Đông phương lý tưởng hóa

Kết quả là người ta đang chứng kiến hiện tượng một Đông phương được lý tưởng hóa, đưa đến sự lầm lẫn giữa đạo pháp của Đức Phật và những phong tục của các dân tộc Á châu. Cũng như tất cả các tôn giáo khác, và ngược lại với những ảo giác đang lan truyền ngày nay, Phật giáo đã từng bị lợi dụng trong những mục đích chính trị, kể cả những tội ác. Nhiều thể chế Phật giáo đã tự đánh lạc hướng, trở thành những ý thức hệ hiếu chiến, chẳng hạn như việc bào chữa cho cuộc “thánh chiến tạo dựng một trật tự mới cho miền Đông Á châu” trong kỳ Đệ nhị Thế chiến vừa qua tại Nhật Bản.

Thiền sư Kodo Sawaki, thầy của Thiền sư Deshimaru đã từng giải thích như sau: “Trong sự sinh hoạt của phần lớn các tập thể tăng lữ, người ta an phận ngồi đọc hoặc tụng kinh một cách thật ngu xuẩn, đắm chìm trong trạng thái đờ đẫn và lười biếng; các nhà sư thì tập trung tất cả sinh hoạttâm trí vào một thực tại hời hợt (...). Các “vị sư”ấy đã khinh thường sự tu tập, chẳng bao giờ chịu thiền định và như thế họ sẽ chẳng bao giờ đạt được sự chứng ngộ.

Ngoài những công việc Phật sự thường nhật mà họ thực thi như một cái máy, họ chỉ biết tán gẫu với nhau qua những mẩu chuyện phù phiếm. Họ bị sa lầy trong thói quen thường ngày, sống như những người say rượu và chết như những người đang chìm đắm trong một giấc mơ. Tất cả những gì họ đang đi tìm là một cuộc sống an bình và không lo nghĩ. Phải chờ đến lúc nào đây dể cho họ mở mắt ra .

Nêu lên những sự kiện trên đây quả thật là một việc quan trọng giúp chúng ta tránh sự lầm lẫn không phạm vào sự đồng hóa Phật giáo với một hình thức ưa chuộng những du nhập ngoại lai, giúp cho những người Tây phương như chúng ta nhận định một cách minh bạchkhông chấp nhận một hệ thống tăng lữ sai lầm.

Căn bệnh khủng hoảng của tình trạng phát triển quá nhanh

Phật giáo ngày nay đang phải đương đầu với căn bệnh khủng hoảng vì tăng trưởng quá nhanh. Trong từng vùng địa lý du nhập, Phật giáo đều dựa vào những tập quán địa phương, và do đó cũng có lý khi phân biệt thành nhiều thứ Phật giáo, như Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Tây Tạng hay Phật giáo Thái Lan. Vì vậy, trong cái hữu lý đó, cũng thật là hợp lý khi nhìn nhận sự phát sinh của một nền Phật giáo “Tây phương”. Hình như yếu tố ấy cũng là một yếu tố không thể thiếu sót giúp cho Phật giáo Tây phương trường tồn.

Sự khẩn thiết của lòng từ bi trong lòng Phật giáo không cho phép Phật giáo tự thỏa mãn khi lặp đi lặp lại phần giáo lý và bất chấp đến những biến đổi của thế giới ngày nay, bất chấp những thiên tai vì khí hậu đổi thay, bất chấp nhân loại đang bị mất gốc, bất chấp sự bành trướng của chủ nghĩa hư vô, bất chấp sự khủng hoảng tâm thần, căn bệnh của thời đại tân tiến. Phải chăng tất cả những thứ đó đã tạo ra cái thực tại khổ đau mà tất cả chúng ta đang phải đương đầu?

Hoàng Phong (lược dịch và ghi chú)

Lời của người dịch

Phật giáo là một tôn giáo phi giáo điều, chỉ dựa vào chân lý, lòng từ bi vô biên, kính trọng con ngườitôn trọng mọi hình thức của sự sống. Vì thế, qua lịch sử, Phật giáo đã thích nghi với tất cả mọi xã hội, phong tục và văn hóa. Phật giáo đã hội nhập với Lão giáoTrung Quốc để trở thành Phật giáo Trung Quốc. Phật giáo cũng hòa lẫn với hương vị của Trà đạotính khí của người Nhật để trở thành Phật giáo Nhật Bản.

Tại Việt Nam, phong tục thờ cúng ông bà và tôn thờ thần thánh cũng hội nhập một cách hài hòa với Phật giáo. Pháp lý Phật giáo bao gồm những khái niệm như Tứ diệu đế, Thập nhị Nhân duyên, Ngũ uẩn, Vô thường, sự tương liên của vạn vật (Duyên khởi). tính Không,... làm nòng cốt cho tất cả mọi truyền thống và tất cả mọi học phái Phật giáo: từ Nam tông đến Bắc tông, từ Phật giáo Tích Lan cho đến Phật giáo Tây Tạng. Tất cả đều tôn trọng cốt lõi đó của Phật giáo và phần thêm thắt là tùy vào phong tục, tập quán, văn hóa và màu sắc địa phương.

Phật giáo phương ấy cũng thế, không phải là một ngoại lệ. Phật giáo du nhập vào phương Tây được thừa hưởng những gia tài vô cùng quý báu: khoa học, triết học, kỹ thuật, truyền thống dân chủ, tổ chức xã hội... Phật giáo phát triển trên một nền móng xã hội phương Tây đang gánh chịu những khủng hoảng gây ra bởi sự bất tương xứng giữa vật chấttâm linh: giữa sự phát triển cao độ về khoa học, kỹ thuật, triết học, văn hóa và một truyền thống tâm linh cứng nhắc, lỗi thời, mang nặng tính cách giáo điều. Cái gia tài khoa học, triết học, kỹ thuật và văn hóa cao độ của phương Tây đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng một nền Phật giáo gọi là “Phật giáo phương Tây”.

Chẳng những Phật giáo là một tôn giáo phi giáo điều mà còn là một tôn giáo phi biên giới. Không giống như một số các tôn giáo khác mang tính cách quốc gia, chẳng hạn như Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo.... Phật giáo đã hội nhập vào các quốc gia phương Tây một cách khá tự nhiên. Vì thế người dịch không hoàn toàn đồng ý với tác giả bài viết trên đây khi ông cho rằng sự tương quan giữa Phật giáo và phương Tây chưa được rõ rệt, tuy rằng phải công nhận có những sự hiềm khích, mặc dù không đáng kể.

Người dịch cũng không hoàn toàn đồng ý với cái nhìn quá nghiêm khắc của tác giả về tình trạng của Phật giáo ở phương Tây và cả ở Á châu. Bài viết của ông rất bộc trực, thẳng thắnuyên bác, biểu lộ một phần tính khí của ông, đồng thời cũng bày tỏ những lo âuhoài vọng của ông mong muốn cho tinh túy giáo lý của Đức Phật được tôn trọng, nguyên vẹn và rốt ráo, việc tu học phải nỗ lực, chuyên cầnlương thiện.

Tuy nhiên, con người thật là phức tạp, từ tính khí cho đến trình độ hiểu biết là đa dạng và khác nhau. Vô minh dày đặc và cùng khắp, nhưng giáo lý của Phật và lòng từ bi của Ngài thì không phân biệtloại bỏ bất cứ một chúng sinh nào.

Chú thích:

1. Fabrice Midal: Tấn sĩ Triết học, giảng dạy về Phật giáo tại các Đại học Paris. Ông là một cư sĩ khá trẻ, tu theo Phật giáo Tây Tạng, ông cạo đầu và quy y khi còn đang là sinh viên, ông viết khá nhiều sách về Phật giáo và thường được phỏng vấn trên Đài Truyền hình Pháp. Ông cũng là Chủ tịch một hiệp hội Phật giáo tại Pháp.

2. Alexandre de Rhôdes (1591-1660): A-lịch-Sơn Đắc Lộ, còn gọi là cha Đắc Lộ, là một nhà truyền giáo thuộc dòng Tên. Ông đã từng bị các chúa nhà Nguyễn trục xuất ra khỏi Việt Nam sáu lần trong vòng 20 năm, nhưng mỗi lần ông đều lén lút tìm cách len lỏi trở lại để truyền giáo. Ông có công chuyển cách viết tiếng Nôm sang mẫu tự La tinh và từ đó đã khai sinh ra chữ Quốc ngữ. Ngày nay, một đường phố và ít nhất có một trường học tại thành phố Hồ Chí Minh mang tên ông, đồng thời chân dung của ông cũng được treo tại Viện Ngôn ngữ học Việt Nam để tỏ lòng biết ơn ông.

3. Alfred Foucher (1865- 1952): không phải là một tác giả vô danh, ông đã hai lần làm Giám dốc Trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole d’Extrême orient) vào những năm 1901, 1905 đến 1907, Giám đốc Trường Ecole Pratique des Hautes Etudes (1974), Giáo sư Trường Collège de France (1919). Giám đốc Trường Văn minh Ấn Độ (1928-1938)... tất cả đều là những cơ quan nghiên cứugiáo dục uy tín và cao cấp của nước Pháp.

4. Jule Ferry: (1832- 1893): là một luật gia, nhà báo và chính trị gia, từng là dân biểu Quốc hội. Bộ trưởng và Chủ tịch nhà nước (Tổng thống) ông đã đưa ra một số những đạo luật tách rời nền giáo dục Pháp ra khỏi nhà thờ. ban hành giáo dục cưỡng báchmiễn phí cho cấp tiểu học, v.v... ông được người Pháp xem là cha đẻ của nền giáo dục thế tục và cũng là một người tiên phong khai sáng nền Cộng hòa Pháp. Ngày nay rất nhiều trường học và đường phố của nhiều tỉnh thành lớn trên đất Pháp mang tên ông. Bài viết trên đây là một bài viết cho độc giả Pháp nên tác giả Fabrice Midal không nói rõ Jules Ferry là ai, vì các người Pháp có ít nhiều hiểu biết về lịch sử đều biết đến Jules Ferry.

5. Hai trăm triệu người là có ý nói đến số Phật tử trên toàn thế giới vào thế kỷ XIX, ngày nay con số này cao hơn nhiều. Hai mươi ba thế kỷ thật ra cũng không chính xác lắm, vì từ khi có Phật giáo đến thế kỷ XIX của Jules Ferry ít nhất cũng phải hai mươi bốn thế kỷ.

6. Kinh luân của đạo Bà La Môn.

7. Hai họa sĩ trứ danh của thế kỷ XIX, các bức họa của họ đã trở nên vô giá.

8. Taisen Deshimaru (1914-1982): là một thiền sư người Nhật, thường được xem như là “Bồ đề Đại ma” của Tây phương vì chính ông đã đưa Thiền học zen (học phái Tào Động) vào Pháp và Âu châu.

(Đây là bài viết của ông Fabrice Midal đăng trong tạp chí Le Monde des Religions, số ngoại lệ 5, phát hành tháng 6, 2007, đặc diệt dành riêng cho chủ đề về Phật giáo. Đây là một tạp chí thuộc tổ hợp báo chí Le Monde, một trong những cơ quan thông tin lâu đờiuy tín của nước Pháp).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 118)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 147)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 218)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 199)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 180)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 217)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 231)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 315)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 421)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 433)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 527)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 787)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 796)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 790)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 810)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 673)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 678)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 799)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 786)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 809)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 791)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 836)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 863)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 915)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1577)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1022)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 920)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1085)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1081)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1506)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1937)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1312)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1058)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1070)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1227)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1251)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1146)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1612)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant