Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05. Ý Nghĩa của Sự Không Tranh Biện Trong Phật Giáo

23 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 10639)
05. Ý Nghĩa của Sự Không Tranh Biện Trong Phật Giáo
PHẬT GIÁO
TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
Sự canh tân của Phật giáo từ Đông sang Tây
Hoang Phong biên soạn và dịch

Ý NGHĨA CỦA SỰ KHÔNG TRANH BIỆN TRONG PHẬT GIÁO

 Các kinh sách, đặc biệt là kinh sách Nam tông, ghi chép rằng vào thời kỳ của Đức Phật không phải chỉ có một trào lưu duy nhấtPhật giáo, trái lại Đức Phật đã sống trong một thời kỳ vô cùng phong phú gồm nhiều truyền thống triết họctín ngưỡng khác. Có rất nhiều vị Thầy lớn tuổi và nổi tiếng hơn cả Phật, chẳng hạn như vị thầy Bà-la-môn Jina Mahavira mà kinh sách Phật giáo thường nói đến dưới danh hiệu là Nigantha Nathaputta.

Trong bối cảnh đặc biệt của sự phát triển cao độ các trào lưu tinh thần của nước Ấn vào thời bấy giờ, sự tranh biện giữa những nhà lãnh đạo và các người chủ trương các học thuyết cũng hết sức cởi mở, rộng rải và tự nhiên một cách lạ thường. Bối cảnh đó đã được ghi chép trong vô số kinh điển Phật giáo và ngoài Phật giáo. Vậy vị trí của Phật giáo trong bối cảnh ấy như thế nào, Đức Phật đã dạy các đệ tử của Ngài phải giữ thái độ như thế nào trước những tranh biện phức tạpthuần lý mang ít nhiều màu sắc tín ngưỡng ấy?

Các học phái và trào lưu ngoài Phật giáo

Kinh sách (trong số này có kinh Samannaphala-sutta) thường nói đến sáu vị Thầy quan trọng hơn hết, các vị thầy ấy không nhất thiết chủ trương một tôn giáo theo định nghĩa thông thường, nhưng đại diện cho nhiều trào lưu triết học dựa vào sự biện luận duy lý hoặc dựa vào vài sắc thái tín ngưỡng. Những trào lưu ấy được phân loại như sau :

- Trào lưu thứ nhất do vị Thầy Purana Kassapa chủ trương. Trào lưu này tin rằng không có sự thưởng phạt nào cả đối với các hành vi thực thi, tức không có một hậu quả nào trong các hành vi duy ý. Vì vậy trào lưu hay chủ thuyết này chủ trương tính cách ngẫu nhiên của vạn vật, có nghĩa là mọi sự vật và biến cố xảy ra một cách tình cờ, ngẫu nhiên và ngẫu biến, không lệ thuộc vào điều kiện. Kinh sách Phật giáo gọi chủ thuyết này là addhiccasamuppanna-vada, (theo Trường Bộ Kinh – Digha-Nikaya).

- Trào lưu thứ hai do vị Thầy Makkhali Gosala, sống cùng thời đại với Đức Phật, chủ trương thuyết định mệnh, tiền định hay số mệnh, và cho rằng những hành vi đạo hạnh hay độc ác không có ảnh hưởng gì đến việc giải thoát con người. Sự cố gắng và hành vi của con người chẳng có hiệu quả gì trong chuỗi dài hiện hữu của họ. Họ chỉ cần chịu đựng hết cái chuỗi dài đó cho đến khi nào nó chấm dứt một cách tự động, khi ấy con người sẽ đạt được sự giải thoát cuối cùng. Chuỗi dài hiện hữu của mỗi cá thể đã được quyết định từ trước, không thay đổi được. Tuy nhiên trào lưu này lại chủ trương có sự biến cải và thăng tiến tuần tự cho mỗi lần tái sinh, từ dạng thể thấp đến dạng thể cao hơn, cho đến khi nào chấm dứt, (theo Trường Bộ KinhDigha-nikaya).

- Trào lưu thứ ba do vị Thầy Ajita Kesakambali chủ xướng, dựa vào thuyết tự hủy, tức là mọi thứ, mọi vật thể tự tiêu tan hay tan biến hết chẳng còn gì cả (Tây phương gọi là annihilism). Kinh sách Phật giáo gọi chủ thuyết này là ucceda-vada. Chủ thuyết hư không hay hư vô trên đây được phổ biến rộng rãi trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế và chia ra nhiều chi phái, nhưng tất cả đều cho rằng sự tu tập chẳng có ích lợi gì, sự hiểu biếtđạo hạnh chẳng giữ một tầm quan trọng nào nơi mỗi cá thể. Theo các chủ thuyết này, con người gồm tứ đại : đất, nước, lửa và khí. Khi chết, mỗi thành phần vừa kể sẽ quay về bản thể chung, tương ứng với chúng trong thiên nhiên : đất với đất, nước với nước, v.v., các chức năng giác cảm thì hội nhập với không gian. Mỗi cá thể sẽ bị xoá bỏ bằng cái chết, và sau cái chết sẽ chẳng còn gì cả.

- Trào lưu thứ tư chủ trương thuyết bất diệt gọi là sassata-vata, do nhiều vị thầy khác nhau chủ xướng, trong số đó vị nổi tiếng nhất là Pakhuda Kaccayana. Theo chủ thuyết này con người được cấu hợp bởi bảy thành phần : đất, nước, lửa, khí, thích thú, đau đớn và sức sống (jiva). Bảy thành phần riêng rẽ đó không sinh cũng không diệt, không khởi thủy cũng không chấm dứt, chúng trường tồn một cách độc lập, không tác động lẫn nhau, không thay đổi, không biến hoá cũng không thăng tiến, cứ giữ nguyên như thế đến vô tận, (theo Trường Bộ Kinh – Digha-nikaya).

- Trào lưu thứ năm thật ra bao gồm nhiều trường phái khác nhau và chủ trương một hệ thống giáo lý theo đó thế giới này là sự sáng tạo của một đấng tối thượng, kinh sách Phật giáo gọi đấng tối thượng này là issara-nimmana-vada. Các trường phái khác nhau đưa ra các định nghĩa ít nhiều khác nhau về Đấng Sáng tạo này và gọi bằng nhiều danh xưng khác nhau : Maha-Brama, vị Chiến thắng, vị Chủ thế giới, Tác giả, vị Sáng tạo, vị Tác tạo định mệnh, vị Tự quản, người Cha của những kẻ đã được sinh ra và sẽ được sinh ra…Các vị thầy chủ trương các hệ phái này là các vị : Acchariyas, Tittiriyas, Chandokas, Chandavas, Brahmacariyas…, đồng thời tên của các vị thầy cũng được đem ra dùng để gọi các hệ phái do các vị ấy chủ xướng.

- Trào lưu thứ sáu là một trào lưu khá lạ lùng, cũng được truyền bá trong thời kỳ của Đức Phật. Vị Thầy được biết đến nhiều nhất trong trào lưu này là Sanjaya Bellatthiputta, ông không bao giờ trả lời những câu hỏi được nêu lên mà luôn luôn tránh né, dùng luận cứ bất khả tri (không thể hiểu được sự tuyệt đối) để tránh đối đầu, chẳng những với các câu hỏi về các chủ đề liên quan đến đạo đức và siêu hình, mà còn tránh né cả các câu hỏi mang tính cách đại cương. Theo Sanja Bellatthiputta, những câu hỏi và những câu trả lời rốt ráo và đích thực đều liên quan đến những gì không thể xác định được, không thể diễn tả được và không thể giải thích được. Người ta thường ví ông như một cái kim luồn qua hai mép vải.

Thái độ của Phật

Không biết các kinh sách Nam tông có ghi chép và diễn tả đầy đủ tất cả các chủ thuyết thời bấy giờ hay không, nhưng đều cho biết một cách minh bạch rằng Đức Phật không chủ trương ngẫu biến, định mệnh, hư vô, bất diệt, sáng tạo, bất khả tri. Điều đáng chú ý hơn hết là ngay trong tập đầu tiên của Kinh Tạng (tức kinh Brahmajala-sutta) đã nêu lên sự kiện Phật bác bỏ 62 chủ thuyết của các vị thầy đương thời. Trong số 62 chủ thuyết ấy có 23 chủ thuyết chủ trương cái ngã (atman), còn gọi là cái tôi, cái ta, và trong số các chủ thuyết còn lại có nhiều chủ thuyết chủ trương sự bất diệt hay trường tồn.

Phật nói rằng : « Bất cứ một quan điểm nào trong số 62 quan điểm [đã đề cập] đều có thể hiển hiện trong đầu của bất cứ ai mang ý niệm sai lầm về cá tính con người (sakkaya-ditthi), nhưng khi nào khái niệm sai lầm này không có, sẽ không còn có sự bám víu vào các quan điểm ấy nữa » (kinh Sammyutta-nikaya). Câu nói trên đây của Phật có nghĩa là gì? Có nghĩa là Phật muốn ám chỉ đến cái vô minh trong mỗi cá thể con người, cái vô minh về sự hiện hữu của cái ta, cái tôi, cái ngã. Con người diễn đạt những thứ ấy qua cái vô minh của mình và gán cho cá thể con người đủ mọi loại đặc tính như trường tồn, hư vô, an bài, định mệnh, hậu quả hay tác phẩm của sự sáng tạo thiêng liêng v.v… Những diễn đạt ấy sẽ làm phát sinh những quan điểm khác nhau. Tệ hơn nữa là mỗi cá thể chẳng những tự diễn đạt những quan điểm ấy cho riêng mình, mà còn tìm cách áp đặt cho kẻ khác. Sự áp đặt cho kẻ khác những diễn đạt về cái tôi, cái ta, cái ngã theo quan điểm của mình chính là nguồn gốc của mọi sự tranh biện.

Phật cảnh giác chúng ta phải tránh sự tranh biện ấy vì ba lý do như sau :

- lý do thứ nhất : các quan điểm khác nhau, sự cả tin hay đức tin của mỗi người và sự biện luận thuần lý sẽ không có ích lợi gì cả, không thiết thực và không giúp ta nhìn thẳng vào vấn đề, do đó Phật dạy không nên quan tâm đến những thứ như thế .

Trong Trung Bộ Kinh (kinh Culamalunkyaputta-sutta), có kể chuyện về một đệ tử của Phật tên mà Malunkyaputta như sau. Malunkyaputta đang ngồi thiền định một mình bổng nhiên những thắc mắc sau đây vụt hiện ra trong đầu : « Vũ trụ trường tồn vô hạn hay không trường tồn vô hạn ? Vũ trụgiới hạn hay không có giới hạn ? Nguyên lý của sự sống thuộc chung một thứ với thân xác hay là nguyên lý sự sống là một thứ riêng biệt và thân xác là một thứ gì khác ? v.v. ».

Malunkyaputta liền đến tìm Đức Phật để hỏi. Đức Phật giảng cho Malunkyaputta như sau : « Này Malunkyaputta, mặc dù có một quan điểm theo đó vũ trụ vô tận và có một quan điểm [khác] theo đó vũ trụ không vô tận, nhưng trước nhất phải hiểu rằng có sinh, có già, có chết, có khổ, có than khóc, có đớn đau, xót xa và tuyệt vọng. [Đối với] Ta, Ta [chỉ] giảng [cho con] về sự chấm dứt những thứ ấy trong thế giới này, trong chính sự sống này. Vì thế, này Malunkuyaputta, hãy giữ lấy trong tâm những gì Ta giảng, đúng như Ta đã giảng, và những gì Ta không giảng, đúng như Ta không giảng…». Phật trả lời cho Malunkyaputta từng chủ đề một, nhưng chỉ trích ra đây một câu tiêu biểu liên quan đến vũ trụ. Vì tính cách lập đi lập lại triền miên của kinh sách, nếu trích ra hết sẽ làm cho bài viết quá dài.

-lý do thứ hai : Phật giúp ta tránh khỏi những biện luận duy lý hay thuần lý đưa đến những quan điểm đối nghịch làm phát sinh ra những tranh luận bất tận. Các chủ thuyết siêu hình thông thường đưa đến những giáo điều gò bó, cần phải có sự cả tin để chấp nhận, hoặc đưa đến việc tìm tòi những luận cứ đủ loại có tính cách chống đỡ hay bài bác. Các luận cứ ấy không phải là những kinh nghiệm thực tiễn do mỗi người thực hiện được, vì thế không thể giúp cho ta đánh giá luận cứ này đúng hơn một luận cứ khác.

Khoa học tiến triển dựa trên giả thuyết, khi một giả thuyết còn đứng vững chưa bị đã phá thì những hiểu biết do giả thuyết ấy mang đến vẫn còn có giá trị, khi một giả thuyết bị xụp đổ thì những hiểu biết dựa trên giả thuyết ấy cũng mất giá trị theo. Trên phương diện biện luận thuần lý, một quan điểm do một cá nhân đưa ra cũng chỉ là một quan điểm như những quan điểm khác. Nếu ta bám víu vào một quan điểm nào đó sẽ đưa đến sự tranh luận hay biện luận bất tận. Nếu như sự bám víu ấy trở nên quá mạnh sẽ có thể đưa đến sự phân biệt và kỳ thị, cố chấp và thiếu khoan dung, hậu quả đưa đến là sự xung độtchiến tranh tôn giáo như đã từng xảy ra trong lịch sử Phương Tây.

-lý do thứ ba : Phật dạy ta giữ một thái độ «trung hoà» hay đúng hơn «đứng ra ngoài mọi quan điểm», không để cho bất cứ một quan điểm nào gây trở ngại cho sự thăng tiến nội tâm của ta. Không phải chính các quan điểm «đứng ra» gây trở ngại, mà chính sự bám víu của ta vào quan điểm này hay quan điểm khác đã trực tiếp cản trở ta trên đường thăng tiến tâm linh. Sự kiện bám víu sẽ tạo ra vô minh làm cho tâm thức u mê.

Bám víu vào bất cứ một quan điểm nào (dhamma tanha) là một điều Phật cấm đoán. Vượt thoát mọi quan điểmsự Giải thoát. Một trong những thể dạng của kỹ thuật ngồi thiền là không tìm cách «giải thích» mọi sự vật và biến cố, đồng thời cũng không diễn đạt những nhận biết của giác cảm trên thân xác và những tư duy hiển hiện trong tâm thức, và đó cũng là cách ứng dụng vào thực tế lời giảng của Phật trên đây : đứng ra ngoài mọi diễn đạt và mọi quan điểm. Giác cảm là giác cảm, không có sự khác biệt giữa một giác cảm thích thú và một giác cảm khổ nhọc hay bấn loạn. Không có sự khác biệt giữa một quan điểm gọi là «đúng» và một quan điểm gọi là «sai», một quan điểm là một quan điểm.

Sau đây là một thí dụ cụ thể hơn. Qua sự lý luận thông thường, ta cho rằng quan điểm chủ trương «có sự hiện hữu của cái ngã», tức tôi có cái ngã của tôi, là một quan điểm sai (miccha ditthi), quan điểm trái ngược lại tức là vô ngã, có nghĩa là không có cái tôi (anatta vada) sẽ phải là một quan điểm «đúng». Nhưng thật ra nên hiểu như thế này: tin rằng không có sự hiện hữu của cái ngã, hay tin là đúng quan điểm không có cái ngã đều «không đúng», giản dị chỉ cần tránh đừng tin là có cái ngã. Sự tế nhị là ở chỗ phái tránh sự cả tin là có cái ngã. Tin hay không tin là hai thái cực của nhị nguyên, hai thái cực ấy sẽ được diễn đạt thành hai quan điểm đối nghịch, tránh là đứng ra ngoài hay lên trên cả hai quan điểm. Đấy là ý nghĩamục đích của việc tránh sự tranh biện trong Phật giáo.

Những kinh nghiệm thực hiện trong Phật giáo

Phật giáo tránh những quan điểm dựa vào sự biện luận thuần lý và những diễn đạt không phát xuất từ kinh nghiệm bản thân, nhất là những biện luận «siêu hình», nhưng không phải vì thế mà Phật giáo không đạt được những hiểu biết siêu việt. Kinh nghiệm do bản thân đối với Phật giáo không phải chỉ dựa trên sự cảm nhận của giác cảm và tâm thức mà còn dựa trên sự hiểu biết «siêu giác cảm», «siêu tâm thức», một sự hiểu biết trực giáctối thượng, nhờ vào sự tu tập lâu dài, chẳng hạn như sự nhận biết về các kiếp trước, về sự tái sinh sau khi chết, sự nhận biết bản thể đích thực của thế giới này, về bản chất của mọi vật thể và biến cố. Những kinh nghiệm trực giáctối thượng đó chính là mục đích của việc tu tập Phật giáo.

Trong kinh Sangarava-sutta, thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật phân biệt ba loại thầy chủ xướng ba xu hướng tâm linh khác nhau, liệt kê như sau : xu hướng thứ nhất có tính cách thần khải (tiết lộ bằng thần cảm) (anussavika), sự hiểu biết thần khải dựa trên kinh sách thiêng liêng gọi là thánh kinh, chẳng hạn như trường hợp các vị thầy Bà-la-môn, nhất là thuộc trường phái Phệ đà (Veda). Các vị thầy thuộc xu hướng thứ hai dựa vào những khái niệm siêu hình căn cứ trên sự biện luận duy lý (takki vimansi) và các vị thầy này tự cho rằng họ có thể đạt được những hiểu biết căn cứ trên sự biện luận và những luận cứ thuần lý. Xu hướng thứ ba gồm các vị thầy đạt được sự hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp xuyên qua sự luyện tập tâm thức. Đức Phật là một vị Thầy thuộc vào nhóm thứ ba.

Đối với Phật giáo, không có chỗ nào dành cho các quan điểm thuần lý cũng như những quan điểmtính cách thần khải. Trong rất nhiều kinh sách, chẳng hạn các kinh Kalama-sutta (trong Tăng Nhất Bộ Kinh), Canki-sutta (trong Trung Bộ Kinh), Phật luôn luôn cảnh giác các đệ tử của Ngài phải xem xét, kiểm tra thật cẩn thận bằng sự hiểu biết kinh nghiệm bất cứ một điều gì trước khi chấp nhận hay phủ nhận. Sự hiểu biết bằng kinh nghiệm trực tiếp hay trí tuệ do sự tu tập đem đến khác với sự kiệnmột quan điểm hay có một đức tin, hai thể dạng hoàn toàn khác nhau.

Kết luận

Sự lý luận, phân giải, tranh biện rất cần thiết cho khoa học, giúp khoa học thiết lập những giả thuyết, trên những giả thuyết ấy sẽ xây dựng sự hiểu biết. Những giả thuyết đánh đổ lẫn nhau để thúc đẩy sự tiến bộhiểu biết. Nhưng theo Phật giáo, những hiểu biết ấy vẫn là những hiểu biết chủ quan, công thứcquy ước, mang tính cách nhị nguyên, không thể dùng để diễn tả sự thực thực tuyệt đối của hiện thực.

Tránh sự biện luận trong Phật giáo là tránh những đối nghịch và bế tắc do sư hiểu biết nhị nguyên, quy ước và sự biện luận thuần lý gây ra. Tránh sự đối nghịch không phải là một thái độ sợ sự hiểu biết mà là phương cách vượt lên trên sự hiểu biết để đạt được sự quán nhận trực tiếp, rốt ráotối thượng về bản chất đích thực của hiện thực. Sự hiểu biết rốt ráotối thượng ấy gọi là sự quán nhận siêu nhiên (panna). Đối với Phật giáo Nam tông, sự hiểu biết ấy tượng trưng cho cấp bậc thứ ba trong việc tu tập. Cấp bậc thứ nhất là tu giới, cấp bậc thứ hai là tu định (samadhi), cấp bậc thứ ba là tu quán (vipassana), tức sự quán thấy hay minh sát bằng trí tuệ. Theo Nam tông trí tuệ ấy giúp người tu tập nhận biết chính xác và trực tiếp tứ diệu đếvô ngã của con người, kết quả đưa đến là thể dạng giải thoát của bậc A-la-hán. Bắc tông gọi cấp bậc thứ ba trên đây là tu tuệ và định nghĩa khác hơn một chút. Bắc tông gọi trí tuệ đạt được trong cấp bậc tu tập thứ ba là Trí tuệ siêu nhiên còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật (prajnaparamita), tức là sự quán nhận trực tiếp hay sự thực hiện trực tiếpnh không của cá thể con người và của tất cả mọi hiện tượng từ tâm thức đến ngoại cảnh, sự quán nhận hay thực hiện Tánh không ấy sẽ đưa đến sự Giải thoát cuối cùng

 

Ghi chú : bài viết chủ yếu dựa theo kinh sách Nam tông. Các lời trích dẫn được trích từ các kinh sách đã được dịch thẳng từ tiếng Pa-li sang ngôn ngữ Tây phương, do đó có thể có vài sự khác biệt nhỏ so với kinh sách tiếng Việt dịch từ kinh sách gốc Hán. Các chữ chú thích trong hai dấu ngoặc đơn là tiếng Pa-li, nhưng vì lý do kỹ thuật nên không đánh dấu được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30594)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20949)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20140)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19375)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24334)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30591)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15634)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27704)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19721)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15524)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23163)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23480)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17462)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15643)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21797)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37910)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22035)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23169)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21278)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28368)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32479)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25116)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34627)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22864)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27622)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31249)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13557)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25068)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27739)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22025)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20686)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22169)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27038)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24056)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21827)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14673)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23068)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23950)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21009)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14127)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19875)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22427)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14011)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 27958)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22734)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28137)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10948)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28440)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31501)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26099)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14878)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 27991)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7367)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25300)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20661)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21084)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12183)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11853)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12754)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26578)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant