Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đạo Phật: Tôn giáo của hòa bình

06 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12645)
Đạo Phật: Tôn giáo của hòa bình

ĐẠO PHẬT: TÔN GIÁO CỦA HÒA BÌNH

Nguyên bản: BUDDHISM: THE TRULY PEACEFUL RELIGION
của D.M. MURDOCK
Việt dịch: Nhóm Phiên Dịch Hoa Đàm

blankTrong sự phát triển quá nhanh chóng của xã hội ngày nay, phật tử khắp nơi trên thế giới trở nên linh hoạt hơn trong việc bảo vệ lẫn truyền bá tư tưởng đạo Phật của họ. Với con số khoảng 500 triệu phật tử, đạo Phật được xem là tôn giáo lớn nhất thứ tư của hành tinh này. Đạo Phật có hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, trong đó gồm có môn Thiền quen thuộc cùng những bản kinh dịch khác nhau của người Tây Tạng. Những môn phái này đều có một điểm chung mà họ muốn nhấn mạnh, đó là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Chính phẩm chất đó khẳng định sự khác biệt của các tông phái. Tùy theo định nghĩa của từng môn phái, đạo Phật có mặt trên cuộc đời này cách đây hơn 2,500 năm, một số môn đồ còn khẳng định nó ra đời cách đây 15,000 năm, được hình thành trước thời đại của Phật rất lâu, mà người ta gọi đó là thời kỳ của Siddhartha Gautama và Sakyamuni. Hơn một thiên niên kỷ qua, đạo Phật đã phát triển thành một hệ thống đầy màu sắc được miêu tả là “khó có thể tưởng tượng được”. Trong khi đạo Phật chính thống không thiếu những khuyết điểm – kể cả phân biệt giới tính – và cũng giống những phong trào khác với một quá khứ đẫm máu ở một vài quốc gia, thì rõ ràng là, so với những tôn giáo khác, đạo Phật mang tính hòa bình thật sự và ít bị chỉ trích là đượm màu bạo lực.

Đạo Phật là vô thần?


đạo Phật nhấn mạnh vào việc giải quyết tình thế tiến thoái lưỡng nan thông qua sự giác ngộ của bản ngã nhiều hơn là đặt lòng tin vào thánh thần hoặc vào một đấng siêu nhiên, đạo Phật được miêu tả như “vô thần” và Phật là một con người vô thần. Thật ra khi giảng dạy về những lời răn của Phật, một số môn đồ đã gạch bỏ tính siêu nhiên, phép lạ và sự kỳ diệu ra khỏi đạo Phật, như trong đạo Phật của người Tây Tạng. Thật ra, đạo Phật truyền thống được truyền miệng trong dân gian thường nhắc nhở rất nhiều về phép thuật, về sự bí ẩn cũng như về những khía cạnh thiêng liêng trong từng bài giảng mà mỗi bản ngã con người nếu được giác ngộ đều có thể lên đến cõi Phật. Nói chung việc lên đến cõi Phật, việc chết đi và đầu thai, việc có kiếp trước – kiếp này – và kiếp sau đều mang tính chất như có thần thánh, và Phật là một đấng thiêng liêng có nhiều kiếp luân hồi khác nhau, hoàn toàn giống với những điều mang tính siêu nhiênchúng ta có thể tìm thấy trong thần thoại của người Hy Lạp, người La Mã và người Ai Cập cổ đại. Chính vì lý do này, không ai có thể khẳng định đạo Phật là “vô thần” được, mặc dù môn phái Thiền rất hiện thực, rất gần gũi với cuộc sống của con người.


Đạo Phật đang phát triển khắp thế giới


Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới. Đây là một sự phát triển đáng hoan nghênh nếu so sánh với sự cuồng tín của những tôn giáo khác, hoặc tính cực đoan của những tư tưởng cố chấp, muốn đưa căm thù, bạo lực và giết chóc vào tôn giáo. Ví dụ ở đất nước Hoa Kỳ, trái với các tôn giáo thường xuyên lên tiếng ồn àoquảng cáo rùm beng như Thiên chúa giáo, Hồi giáo hoặc Do Thái giáo, Phật giáo im lìm và lặng lẽ đến mức hầu như chúng ta không biết rằng số người theo đạo Phật còn nhiều hơn số người theo đạo Hồi hoặc đạo Hindus. Với thêm 6 triệu phật tử là người Hoa Kỳ, đạo Phật trở thành tôn giáo lớn nhất thứ tư trên thế giới tại vùng đất Hợp Chủng Quốc này. Hàng trăm đền thờ, tu viện, trường học, và các khu cộng đồng lần lượt mọc lên ở khắp nơi. Gần đây Phật tử người Miến Điện cũng đã xây dựng đền thờ đầu tiên của họ ở thành phố Portland, tiểu bang Oregon. Nhận biết đạo Phật đang phát triển âm thầm nhưng mạnh mẽ ở Hoa Kỳ, những người nghiên cứu về tôn giáo nhận xét không chỉ có đạo Phật dành cho người châu Á mà còn có đạo Phật dành riêng cho người Hoa Kỳ cũng đang xuất hiện. Các trung tâm giảng dạy về kinh Phật và các cộng đồng cầu nguyện đang lan rộng khắp các tiểu bang, trong khi đó những người đề xướng ra đạo Phật cho người Hoa Kỳ chịu khó viết lại kinh kệ bằng các thuật ngữ hiện nay của phương Tây.


Giờ đây chúng ta có thể thấy đạo Phật đang chuyển mình và lan rộng khắp nơi trên thế giới. Ví dụ như ở Ấn Độ, nơi được cho là cái nôi của đạo Phật nhưng cách đây nhiều thế kỷ, đạo Phật từng bị xua đuổi bởi đạo Hồi và đạo Hindu, từng bị bóp chết và dập tắt, nhưng ngày nay đạo Phật quay trở lại với Ấn Độ, chậm chạp nhưng chắc chắn, dưới sự dẫn dắt về tinh thần của vị thủ lãnh người Tây Tạng là đức Đạt lai Lạt ma trong nhiều thập kỷ qua. Phật tử Ấn Độ cũng đang lên tiếng yêu cầu khá ồn ào là họ mong muốn được nắm giữ thành phố Bồ Đề Đạo Tràng, nơi được cho là Phật đã từng đến đây và giác ngộ dưới cây bồ đề thiêng liêng. Ngoài ra, kể từ tháng 2 năm 2010, tất cả thánh tích được cho là của Phật từ khắp nơi trên thế giới sẽ được phật tử đưa tới thành phố Chennai của Ấn Độ để trưng bày tại đây. Đây là một phần của chương trình mang tên Trở về Thánh tích Maitreya mà phật tử khắp nơi trên thế giới đều ủng hộ. Trong thời gian này, tại Hoa Kỳ, ngày càng có nhiều phật tử tự thành lập chùa chiền và tự quản lý lấy. Đó cũng là một biện pháp linh hoạt nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của con số phật tử đang ngày càng tăng lên. Sự phát triển trên có thể được nhìn thấy rõ ràng qua các phong trào hoạt động tích cựctiến bộ cho giới phật tử trên đất Hoa Kỳ trong tương lai.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 56)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 164)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 311)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 387)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 681)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 602)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 547)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 687)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 704)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 494)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 590)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 712)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 830)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1391)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1403)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1162)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1393)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1376)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1291)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1214)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant