Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tháp: ý nghĩacông dụng

15 Tháng Chín 201000:00(Xem: 21337)
Tháp: ý nghĩa và công dụng
altTiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn, lăng mộ, linh miếu v.v..

Ban đầu sthùpa dùng để chỉ cho những chỗ được kiến tạo để thờ xá lợi của Phật, nhưng về sau nó được dùng lẫn lộn với chi đề (cetiya - điện thờ). Ma ha tăng kỳ luật quyển 33, và Pháp Hoa nghĩa sớ quyển 11 quy định rõ: Phàm nơi nào có xá lợi của Phật thì gọi là tháp, không có xá lợi của Phật thì gọi là chi đề. Căn cứ vào đây thì 8 ngôi tháp tôn trí xá lợi của Phật tại Câu Thi Na, Ma Kiệt Đà v.v.. mới đích thực là sthùpa (tháp). Ngoài ra, các ngôi tháp nơi Phật đản sinh tại thành Ca Ti La Vệ, ngôi tháp chỗ Phật thành đạo dưới gốc cây bồ đề, ngôi tháp chỗ Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, ngôi tháp chỗ Phật hiện thần thông tại tinh xá Kỳ Viên, ngôi tháp có 3 cấp báu bên thành Khúc Nữ, ngôi tháp chỗ để kinh Đại thừa trong núi Kỳ Xà Quật, ngôi tháp tại rừng Am La Vệ, nơi Duy Ma Cật thị hiện bệnh, ngôi tháp chỗ Phật Niết bàn trong rừng Sala, (8 linh tháp lớn này) đều thuộc về chi đề. Nguyên uỷ về việc tạo tháp bắt đầu từ thời Đức Phật, Thập tụng luật quyển 56 chép: Trưởng giả Tu Đạt từng xin tóc và móng tay của Phật về xây tháp để cúng dường. Ngoài ra, Ma ha tăng kỳ luật, quyển 33 chép: Vua Ba Tư Nặc noi gương Phật, kiến tạo tháp Phật Ca Diếp để lễ bái, cúng dường hằng ngày.

Sau khi Phật nhập diệt, Bà la môn Hương Tánh chia xá lợi của Phật cho 8 nước; rồi các vị quốc vương rước xá lợi ấy về nước xây tháp cúng dường. Đó là lịch sử xây tháp đầu tiên sau khi Phật Niết bàn. Ngoài ra, theo A Dục vương truyện quyển 1 và Thiện kiến luật Tì bà sa quyển 1 đều chép rằng: khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, vua A Dục trị vì nước Ma Kiệt Đà đã xây 84.000 ngôi bảo tháp trong vương quốc của mình.

I. Vài ngôi tháp tiêu biểu tại những nước Phật giáo

Nếu căn cứ vào ý nghĩa rộng rãi của tháp mà nói thì các nơi trên thế giới đã từng kiến tạo tháp rất nhiều. Chúng ta có thể kể đến một số ngôi tiêu biểu tại những nơi theo Phật giáo như sau:

1. Ấn Độ: Tại Ba Hách Đặc (Bharhut) có một ngôi tháp di tích, thân tháp đã huỷ hoại hết, nhưng còn nền tháp và những tảng đá. Thời gian xây tháp này khoảng 200 năm trước Tây lịch.

- Ngôi tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng kiến tạo khoảng 100 năm trước Tây lịch.

- Tháp thờ tại động A Chiên Đa (Ajanta) và tại hang Na Tây Khắc (Nàsik).

Vua Ca Nị Sắc Ca (kaniska) nước Kiền Đà La thuộc Bắc Ấn Độ xây một ngôi tháp cao 32m dưới núi Tuyết Sơn, khoảng thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Đồng thời nhà vua cũng xây một ngôi tháp khác, gồm 13 tầng cao hơn 200m, mà theo sách Lạch Dương Già ký quyển 5 thì đây là ngôi tháp đặc sắc nhất trong những ngôi tháp tại Tây Vức...

2.Tích Lan (SriLanka): Vua Thiên Ái Đế Tu (Devànampiya Tissa) đã kiến tạo một số ngôi tháp tại Tháp Viên (Thùpàràma). Đó là những ngôi tháp xuất hiện sớm nhất trên Tích Lan. Ngoài ra, trên núi Vô úy (Abhayagiri) có một ngôi tháp cao 120m, kiến tạo vào thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Đây là một trong những ngôi tháp cổ rất nổi tiếng tại Tích Lan.

3. Miến Điện (Myanmar): Nước này có tháp Phật Đoan Đức Cung (Shwedagon) tại Ngưỡng Quang (Rangoon) cao 118m; tháp Tu Mã Đổ (S'emaudau) tại Tí Cổ (pegu) cao 102m. Toàn bộ mặt ngoài của tháp đều được thếp vàng và có 10 ngôi tháp nhỏ ở xung quanh.

4. Thái Lan: Tại cố đô Du Địa Á (Ayuthia) còn lưu lại không ít những ngôi tháp Phật cổ xưa. Ngoài ra, tại Băng Cốc (Bangkok) còn có tháp Phỉ Lạp thác mỗ ma yết đề (Phra - Thomma - Chedi) cao 125m, và ngôi tháp Thanh Tự (Wat Ching) đều là những ngôi tháp nổi tiếng thế giới.

5. Lào: Nước Lào có tháp Duy Ân Thường (Chom - Vien chang), tháp Khoa Ma Nghinh (Chom - yong), đều là những ngôi tháp cổ trọng yếu hiện còn.

6. Trảo - Oa (Java): Nơi đây có Bà La phù đồ (Borobudur) là một ngôi tháp quy mô, bề thế; nền tháp hình tứ giác, chính giữa là một ngôi tháp lớn đứng thẳng lên tới đỉnh, và chu vi thân tháp gồm có 72 ngôi tháp nhỏ. Trong mỗi ngôi tháp nhỏ đều đặt tượng phật, toàn bộ kiến trúc có nhiều tầng cấp, hình dáng tương tự kim tự tháp. Chiều dài, chiều rộnh mỗi bên 123m, và chiều cao 42m. Đó là thánh địa Phật giáo Đaị thừa hiện còn, rất to lớn và rất trang nghiêm.

7. Ni Bạt Nhĩ (Nepal): Xứ này có tháp Ô nhã mỗ bố na đức (Snuyambhunàth) tại Gia Đức Mãn Đô (Katmandu) rất lớn, hình dạng như cái bát úp, ở trên có 10 tầng tướng luân, đỉnh tháp để thiên cái (lọng báu).

8. Tây Tạng: Tháp ở Tây Tạng thường được gọi là Lạt ma tháp, và đa số tháp ở đây đều có hình dáng nhỏ.

9. Trung Quốc: Tại Trung Quốc, thời đại tạo tháp được ghi nhận sớm nhất là thời Tam Quốc. Tương quyền vào năm Xích Ô thứ 3 (năm 240), vua Đông Ngô là Tôn Quyền sai Khương Tăng Hội đã chí thành cầu nguyện, cảm được xá lợi xuất hiện. Do đó, nhà vua rất thán phục, cho xây tháp để cúng dường, gọi nơi này là chùa Kiến Sơ. Thế nhưng, theo Phật Tổ thống kỷ quyển 54 thì ngôi tháp tại chùa Bạch Mã được xây vào năm Vĩnh Bình thứ 10 (năm 67) đời vua Hán Minh Đế, mới là ngôi tháp sớm nhất của Trung Quốc. Về sau, sự tích các triều đại xây tháp vẫn còn tiếp tục. Vào năm Thái Khang thứ 2 (năm 281), đời vua Võ Đế nhà Tây Tấn, Huệ Đạt ở huyện mậu, tỉnh Chiết Giang trông thấy một bảo tháp từ dưới đất hiện lên, cao độ 45m, rộng khoảng 22m. Do thế, ông bèn xây tháp tại ấy. Năm Huy Bình nguyên niên (năm 516) đời Bắc Ngụy, Linh thái hậu là Hồ thị sai thợ thiền nghệ kiến trúc một ngôi tháp gỗ tại chùa Vĩnh Ninh, Lạc Dương, gồm 9 tầng, cao 320m, đứng cách xa một trăm dặm vẫn có thể trông thấy. Nhưng đáng tiếc là ngày nay ngôi tháp này không còn.Vào đời nhà Tùy, vua Tùy Dạng Đế đã vì Đại sư Trí Khải mà xây một ngôi bảo tháp bằng gạch tại chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai. Ngôi tháp này hình lục giác, gồm 4 tầng, cao độ 74m. Vua Đường Thái Tông cũng từng theo lời thỉnh cầu của Đường Tam Tạng Huyền Trang mà xây một ngôi tháp gạch tại chùa Từ Ân, Tây An, cao 58m.

10. Nhật Bản: Vào tháng 2 năm Kính Đạt Thiên hoàng thứ 14 (mă, 585) viên quan đại thần Tô Ngã Mã Tử tạo một ngôi tháp ở phía Bắc Đại Dã Khâu. Ở trên đầu chóp tháp tôn trí ngọc xá lợi mà ông đã thỉnh được. Đến năm Suy Cổ Thiên hoàng thứ 15 (năm 606), Thánh Đức thái tử tạo một ngôi tháp 5 tầng tại chùa Pháp Long, đến nay vẫn còn. Đây là ngôi tháp gỗ cổ nhất thế giới.

II. Hình dáng của tháp:

Về chủng loại của tháp rất phong phú, nếu dùng hình dáng để phân loại thì ta có:tháp phú bát, tháp khám, tháp trụ, tháp nhạn, tháp lộ, tháp ốc, tháp vô bích, , tháp Lạt ma, tháp nhiều tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình bát giác, tháp đại, tháp đa bảo, tháp du kỳ, tháp Ngũ luân, tháp hình trứng, tháp vô phùng, tháp lâu các, tháp mật diêm, tháp kim cương bảo tòa, tháp mộ...

Trong các hình thức của tháp thì hình thức tháp phú bát (bát úp) là xưa nhất. Theo luật Ma ha tăng kỳ quyển 33, và hữu bộ tùy nại da tạp sự quyển 18 thì tháp phú bát gồm có các bộ phận sau đây cấu thành: thân tháp hình bát úp, đầu bằng có trụ hình bánh xe, tướng luânbảo bình. Luật quy định, nếu dựng tháp thờ Phật thì phải có đầy đủ hình thức kể trên.Nếu dựng tháp cho Độc giác Phật thì không được an trí bảo bình. Nếu xây tháp cho vị A la hán thì tướng luân không được nhiều hơn 4 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Bất Hoàn thì tướng luân không quáv 3 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả nhất lai, thì tướng luân không quá 2 tầng. Nếu xây tháp cho vị chứng quả Dự lưu thì tướng luân không quá 1 tầng.Nếu xây tháp cho người thiện trong phàm phu thì phải xây bằng trên đầu và không được dùng hình thức tướng luân. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 41 còn ghi rõ: Vị chuyển luân thánh vương (như vị nguyên thủ của một đại cường quốc) cũng được xây tháp, nhưng không được dùng tướng luân (tầng tháp hình lục giác hay bát giác), và chỉ xây bên ngoài khuôn viên chùa. Vì vị này tuy có phước đức lớn nhưng chưa đoạn trừ hết 3 độc tham, sân, si.

Nền của tháp theo thể thức Ấn Độ thời xưa thì phần lớn làm hình tròn. Nhưng Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam...thì thường dùng tứ giác hoặc bát giác để cấu trúc.Thân tháp càng về sau, càng biến thành nhiều tầng. Vào khoảng thế kỷ thứ 3, thứ tư có tháp 3 tầng xuất hiện, sau đó lại có 5 tầng, 7 tầng, 9 tầng, 13 tầng, 15 tầng, 17 tầng, thậm chí đến 37 tầng.Nhưng theo Tỳ nại da tạp sự quyển 18 (Đ.24, tr.291c) qui định thì số lượng các tầng tướng luân hoặc là 1,2,3,4 cho đến 13 tầng là tối đa. Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn một số tháp nhiều tầng nổi tiếng, như tại chùa Tung Nhạc, núi Tung Sơn (Trung Quốc)có ngôi tháp gạch cao 15 tầng. Ở chùa Tiến Phúc, tại Tây An có ngôi tháp tiểu nhạn cao 15 tầng; và chùa Hương Tích, tại Tây An có ngôi tháp gạch cao 13 tầng

III. Chủng loại của tháp

Nếu căn cứ vào những vật được tôn trí trong tháp mà phân loại, thì chúng ta có: tháp xá lợi, tháp tóc, tháp móng, tháp răng, tháp y, tháp bát, tháp chân thân, tháp tro thân, tháp toái thân, tháp bình, tháp hải hội, tháp tam giới vạn linh, tháp nhất tự nhất thạch...

1. Tháp xá lợi: Tức là ngôi tháp được kiến tạo tôn trí xá lợi của Phật - những chất kết tinh sau khi nhục thân đã được trà tì.

2. Tháp tóc: Ngôi tháp lập ra để cúng dường tóc Phật.

3. Tháp móng: Ngôi tháp được xây dựng để cúng dường móng tay, móng chân của Phật. Hai vật này do trưởng giả Tu Đạt xin Phật đem về nhà xây tháp cúng dường.

4. Tháp răng: Ngôi tháp dùng để cúng dường răng của Phật.

5. Tháp chân thân: Tháp dùng để tôn trí chân thân (nhục thân) của cao tăng.

6. Tháp khôi thân: Tức ngôi tháp tàng trữ tro của bậc cao tăng sau khi đã hỏa thiêu.

7. Tháp toái thân: Tức ngôi tháp an trí một phần tro thân sau khi hỏa thiêu còn lại, như ngôi tháp Từ Ân ở gần đầm Nhật Nguyệt là ngôi tháp toái thân của Đại sư Huyền Trang.

8. Tháp phổ đồng: Còn gọi là tháp phổ thông, tháp hải hội; tức ngôi tháp tập trung di cốt của chúng tăng các nơi về tàng trữ vào một chỗ.

9. Tháp tam giới vạn linh: Tức ngôi tháp tập trung những di cốt của hạng người hữu duyên với Phật pháp.

10. Tháp mễ cốc: Ngôi tháp tàng trữ lúa thóc dùng để cầu nguyện cho ngũ cốc được mùa.

11. Tháp nhất tự nhất thạch: Cứ mỗi viên đá nhỏ khắc một chữ trong kinh Pháp Hoa, rồi chôn vào lòng đất, xây tháp lên trên để cúng dường.

Ngoài ra, kinh Quán Hư Không Tạng Bồ tát còn cho biết trên cung trời Đao Lợi có 4 ngôi tháp tôn trí 4 di vật của Đức Phật, thường gọi 4 tháp của Đế thích, đó là:

1) Tháp tóc;

2) Tháp y;

3) Tháp bát;

4) Tháp răng.

IV. Chất liệu dùng làm tháp

Phân tích về những chất liệu dùng làm tháp, ta có: tháp gỗ, tháp gạch, tháp đá, tháp bùn, tháp đất, tháp sắt, tháp đồng, tháp vàng, tháp bạc, tháp thủy tinh, tháp pha lê, tháp lưu ly, tháp ngọc, tháp châu báu và tháp hương.

1. Tháp gỗ: Tại Trung Quốc hiện còn ngôi tháp gỗ xưa nhất, đó là ngôi tháp Thích Ca tại chùa Phật Cung, huyện Ứng, tỉnh Sơn Tây, làm năm Thanh Ninh thứ 2 (năm1056) triều vua Liêu Đạo Tông, hình bát giác, gồm 5 tầng cao 115m, kiến trúc rất kiên cố. Năm Nguyên Thuận Đế, tại huyện Ứng bị động đất 7 ngày ngôi tháp này vẫn đứng yên bất động. Ngoài ra còn phải kể đến ngôi tháp do vua Ca Nị Sắc Ca kiến trúc và ngôi tháp ở chùa Vĩnh Ninh, thành Lạc Dương cũng đều là tháp gỗ.

2. Tháp gạch: Hiện nay các nước Thái Lan, Miến Điện, Lào, Việt Nam, Tây Tạng, những ngôi tháp hiện còn phần lớn là tháp bằng gạch. Tại chùa Tung Nhạc, Trung Quốc có ngôi tháp gạch 12 cạnh, cao 15 tầng, nền tháp rất cao, mái che trùng điệp, tráng lệ, hùng vĩ. Đây là một ngôi tháp kiến trúc rất nghệ thuật, cực kỳ giá trị.

3. Tháp đá: Tại Ấn Độ ngày xưa thường xây tháp bằng đá như ngôi Sơn Hà đại tháp. Ngoài ra, trong hang đá ở Vân Cương Trung Quốc hiện còn một số ngôi tháp bằng đá.

4. Tháp cát: Trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa cũng như kinh Luật Dị Tướng quyển 44 đều có đề cập đến cố sự "Đồng tử vun cát làm tháp".

5. Tháp đất: Trong Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa cũng có kể đến loại tháp làm bằng đất dùng để cúng dường Phật.

6. Tháp sắt: Sách Nhập Đường cầu pháp tuần lễ ký chép: Tháng 9 năm Lân Đức thứ 2 (năm 665) đời Đường Cao Tông, tại chùa Pháp Vân có tạo một ngôi tháp bằng sắt gồm 7 tầng, cao 1 trượng.

7. Tháp đồng: Ngô Việt Vương là Tiền Hoàng Thục noi gương vua A Dục ngày xưa, khoảng năm Hiển Đức thứ 2 (năm 955) cho đúc 84.000 cái tháp bằng đồng, cao chừng 2 tấc Tây, mọi người đều ngợi khen là rất đẹp.

8. Tháp vàng: Phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa từng đề cập đến loại tháp này.

9. Tháp bạc: Loại tháp cũng giống như tháp vàng ở trên, tương đối cũng ít thấy. Theo sách Xuất Tam Tạng ký tập quyển 8 cho biết một người Bà la môn từng tạo một ngôi tháp bạc trong nhà, cao 3 trượng, rộng 8 thước.

10. Tháp thủy tinh: Nhật Bản, tại phường Phản Bản Thực Tạng có ngôi tháp thờ xá lợi bằng thủy tinh, được kiến trúc rất nghệ thuật; đó là quốc bảo của nước Nhật.

11. Tháp pha lê, xa cừ, mã não, lưu ly: Các loại tháp này cũng đều thấy có đề cập đến trong phẩm Phương Tiện và phẩm Bảo Tháp của kinh Pháp Hoa.

12. Tháp ngọc: Loại tháp này còn lại hiện nay rất ít. Năm Khang Hy thứ 49 (năm 1709) đời nhà Thanh, vua Thánh tổ từng sai thợ chuyên môn dùng 3 màu thạch ngọc vàng, xanh, trắng phối hợp điêu khắc một tòa tháp ngọc 8 tầng, cao độ 3 thước Tây, nghệ thuật điêu khắc rất tinh vi. Ngôi tháp này được xem như một thứ quốc bảo. Trải qua thế cuộc biến thiên, bảo vật này lưu lạc đến nước Mỹ và hiện nay nó được tàng trữ tại Đại học Áo Lập Cương.

13. Tháp hương: Tức dùng hương tán nhỏ hòa với nước mà nắn thành ngôi tháp nhỏ, cao chừng 1,2 tấc Tây trở lên, trong tháp tôn trí những bản kinh chép tay để lễ bái cúng dường, gọi là "Pháp xá lợi"

V. Mục đích của tháp:

Nếu phân tích về phương diện ý nghĩa, mục đích thì có: tháp kỳ phúc, tháp báo ân, tháp pháp thân và tháp thọ.

1. Tháp kỳ phúc: Các tín đồ Phật giáo xem việc tạo tháp là một công đức lớn, nên dựng tháp để cầu phúc.

2. Tháp báo ân: mục đích báo đáp ân đức của Phật mà xây tháp để thờ Phật, nên gọi là tháp báo ân.

3. Tháp pháp thân: Vì để an trí pháp thân xá lợi (những bản kinh quí được chép tay) nên tạo tháp.

4. Tháp thọ: Tức là bia, mộ của các cao tăng dự tạo lúc còn sống, giống như người đời xây sinh phần.

VI. Cách bài trí tháp:

Về cách bài trí tháp thì có các hình thức: tháp cô lập, tháp đối lập, tháp bài lập, tháp phương lập, tháp cũng lập, tháp phân lập v.v...

1. Tháp cô lập: Tức ngôi tháp đứng đơn độc một mình. Hình thức này phổ biến nhất.

2. Tháp đối lập: Như tại Trường An ở Thiểm Tây (Trung Quốc) có 2 ngôi tháp Đại Nhạn và Tiểu Nhạn đứng đối diện nhau.

3. Tháp bài lập: Như 3 ngôi tháp ở trong vườn chùa Gia Hòa ở tỉnh Chiết Giang, kiến tạo từ đời Đường và được tu bổ vào năm Quang Chử thứ 2 (năm 1876)

4. Tháp phương lập: Như tại thành Thẩm Dương ở Liễu Ninh có 4 ngôi tháp đứng ở 4 cửa thành.

5. Tháp cũng lập: Như 5 ngôi tháp ở chùa Ngũ Tháp ở ngoài cửa Tây của Bắc Bình.

6. Tháp phân lập: Như 7 ngôi tháp tại Kim Cương Bảo Tháp viện ở phía Tây Bắc Bình.

VII. Công đức tạo tháp

Các kinh điển cũng như các giáo huấn xưa nay đều nói rõ về công đức rất lớn của việc tạo tháp. Kinh Thí Dụ nêu ra 10 phước báo thù thắng của việc tạo tháp:

1. Không bị sinh vào những quốc độ biên địa.

2. Không bị nghèo khốn.

3. Không mang thân ngu si, tà kiến.

4. Có thể làm nguyên thủ những nước lớn.

5. Thọ mạng lâu dài.

6. Có thể được sức mạnh như lực sĩ Kim Cang Na La Diên.

7. Được phước đức to lớn không gì sánh bằng.

8. Được nương nhờ đức từ bi của chư Phật, Bồ tát.

9. Đầy đủ tam minh, lực thông, bát giải thoát.

10. Được vãng sinh Tịnh độ của 10 phương chư Phật.

VIII. Công đức nhiễu tháp

Kinh Đề Vị cũng nêu lên 5 công đức của sự nhiễu tháp như sau:

1. Đời sau được sắc đẹp, đoan chính.

2. Được âm thanh trong trẻo, êm dịu.

3. Được sinh lên cõi trời.

4. Được sinh vào nhà các vương hầu.

5. Đạt được đạo quả Niết bàn.

Khi nhiễu tháp phải đi theo chiều phía tay phải, và phải cúi đầu nhìn xuống đất, không được dẫm đạp những côn trùng nơi tháp, không được nhìn ngó 2 bên, không được khạc nhổ trên đất tháp, không được dừng lại nói chuyện với người khác. Không những tạo tháp, nhiễu tháp mới có công đức, mà sửa chữa tháp, quét tháp, lễ tháp v.v.. cũng đều có công đức rất lớn.

Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu khái quát ý nghĩa, mục đích, diễn tiến hình thành ngôi tháp thờ Phật tại những quốc gia theo Phật giáo. Mặc dù sự giới thiệu này chưa đầy đủ, quí độc giả vẫn có thể mường tượng được hình ảnh ngôi tháp thờ Phật từ lúc bắt đầu xuất hiện cho đến ngày nay trên thế giới. Riêng tình hình tháp tại Việt Nam, chúng tôi sẽ trình bày trong một bài khác, để đáp ứng yêu cầu của những vị nào muốn tìm hiểu về lịch sử Phật giáo nước nhà.

* Ghi chú:

- Theo Phật Quang đại từ điển tr. 5421 - 5432. Lạc Dương già tam ký quyển 1;

- Đại Đường Tây Vức ký quyển 2;

- Lương cao tăng truyện quyển 1;

- Quảng Hoằng Minh tập quyển 15, 17; và một số tư liệu khác.

altalt

Bảo Tháp Nepal

altalt

Bảo Tháp Ấn Độ

alt

Bảo Tháp Tích Lan

altalt

Bảo Tháp Borobudur Trảo - Oa (Java)

altaltalt

Bảo Tháp Miến Điện

alt

Bảo Tháp Lào

alt

Bảo Tháp Thái Lan

altaltalt

Bảo Tháp Tây Tạng

altaltalt

Bảo Tháp Nhật Bản

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13157)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19317)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24549)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15698)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37771)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13438)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13049)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17132)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13161)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17345)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21588)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13177)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14346)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12773)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13615)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28525)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23324)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34304)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28828)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32136)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11286)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11976)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26226)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17334)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14496)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34408)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13091)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12247)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13374)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40463)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26878)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14427)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13197)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13428)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12490)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13098)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12266)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11741)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12537)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17625)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12165)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12715)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18415)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14266)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12959)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11296)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12112)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13433)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10803)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11036)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10247)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28820)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25198)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26815)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25687)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18616)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22951)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34460)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32096)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30331)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant