Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ tát và trụ xứ độ sinh

19 Tháng Chín 201000:00(Xem: 17164)
Bồ tát và trụ xứ độ sinh


Trong nhiều Kinh điển Phật Giáo Đại Thừa, chúng ta thường nghe nói đến các ý nghĩa “phát khởi tâm niệm mà không chấp trước”. Một câu nói siêu việt khác đã được tựu trung trong Kinh Kim Cang, mà tất cả mọi người chúng ta, ai cũng biết rằng, Lục Tổ Huệ Năng, trước khi thành Tổ, là người nghe kinh này và bừng tâm tỉnh ngộ, và kể từ đó ý nghĩa câu kinh trở thành ý chỉ, cốt lõi của Thiền: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hãy để cho tâm của người khởi lên mà không cố định, dính mắc bất cứ nơi nào).

Phát khởi tâm của chính mình, mà không để cái tâm đó, dính mắc, thiên lệch, đắm trước nơi đâu, có nghĩa là mình đã làm chủ trọn vẹn với chính mình. Mình không để tâm sai sử, rong ruổi với cảnh trần. Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát. Và để thấy rõ hơn, đâu là sinh địa đích thực của Chư Vị Bồ Tát:

1. Nơi nào có tâm Bồ Đề được phát khởi nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì tâm Bồ Đềquyến thuộc của Bồ Tát.

2. Nơi nào có thân tâm, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi xuất sinh các thiện trí thức.

3. Nơi nào có chứng nhập các trụ địa, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi sinh trưởng hết thảy Ba La Mật.

4. Nơi nào có phát đại nguyện, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi thi hành công hạnh.

5. Nơi nào có đại từ bi, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi phát triển bốn nhiếp tâm.

6. Nơi nào có chánh kiến, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi trí tuệ siêu việt trỗi dậy.

7. Nơi nào Đại Thừa quảng bá, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi hết thảy các phương tiện thiện xảo được vận dụng.

8. Nơi nào có giáo hóa chúng sanh, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi hết thảy Chư Phật thị hiện.

9. Nơi nào có phương tiện trí, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi nhận biết rằng hết thảy các pháp đều không sinh.

10. Nơi nào có tu tập hết thảy các Phật Pháp, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát, vì đó là nơi mà hết thảy Chư Phật trong quá khứ, hiện tại, và vị lai thị hiện.

Chúng ta hãy thử nghĩ ai là Cha Mẹthân quyến của Bồ Tát, và những phận sự của Bồ Tát là gì? Chúng ta thấy:

Bát Nhã là Mẹ

Phương Tiện là Cha

Bố Thí là người Nuôi Nấng

Giới Luật là người Trông Nom

Nhẫn Nhục là đồ Trang Sức

Tinh Tấn là người Thủ Hộ

Thiền Định là người Tắm Rửa

Thiện Hữu là người Dạy Dỗ

Bồ Đề phần là Bạn Đồng Hành

Bồ Tát là Anh Em

Bồ Đề Tâm là Nhà Cửa

Chánh Đạo là Việc Nhà

Trụ Địa là Chỗ Ở

Pháp NhẫnGia Tộc

Nguyện là Gia Giáo

Thực hành Công HạnhGia Vụ, được thọ ký trong một đời nữa,

Số phận Bồ Tát như Thái tử nối nghiệp trong Vương quốc Chánh phái, và thành tựu trí tuệ viên mãn của Như Lai là nền tảng gia quyến thanh tịnh, viên dung.

Bằng thái độ tinh thần vững chắc nào để Bồ Tát bước vào đời sống của chúng ta?

Bồ Tát không chán ghét thứ gì trong bất cứ thế giới nào mà Bồ Tát bước vào, vì biết rằng hết thảy các pháp như ảo tưởng. Bồ Tát không đắm nhiễm trong bất cứ con đường nào mà Bồ Tát bước đi, vì biết rằng, tất cả là một sự hóa hiện. Bồ Tát không thấy mỏi mệt trong bất cứ nỗ lực nào điều phục chúng sinh. Vì biết rằng tất cả đều vô ngã. Bồ Tát nhiếp hóa chúng sanh mà không hề mỏi mệt, vì từ bi là tinh thể của Bồ Tát. Bồ Tát không sợ phải trải qua nhiều kiếp, vì thấy rõ rằng sinh tửnăm uẩn như là ảo tượng. Bồ Tát không hủy diệt bất cứ con đường hiện hữu nào, vì biết rằng hết thảy các giới, và xứ đều là pháp giới. Bồ Tát không thiên chấp về các đạo vì biết rằng hết thảy tư tưởng đều như quáng nắng. Bồ Tát không bị ô nhiễm dù khi ở trong cõi của hàng chúng sinh xấu ác, vì biết rằng hết thảy các thân đều chỉ là giả tượng. Bồ Tát không hề bị lôi cuốn bởi những tham dục, vì đã hoàn toàn chế ngự tất cả những điều được khải thị. Bồ Tát vô cùng tự tại cho dù đi bất cứ nơi đâu vì đã hoàn toàn kiểm soát những giả tướng.

Bằng những hành tung và thệ nguyện độ sanh , chúng ta thấy hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ Tát đã thành Phật từ vô lương kiếp, nhưng vì công hạnh độ sinhBồ Tát thị hiện vào cuộc đời, qua danh hiệu Quán Tự Tại Bồ Tát, Thiên Thủ Thiên Nhãn, Nhĩ Căn Viên Thông v.v... Đức Bồ Tát vân du trong cõi đờ, tùy căn cơ, tùy phương tiện để giáo hóa chúng sinh qua 12 lời nguyện:

1. Đức Bồ Tát hiệu Viên Thông, tên là Tự Tại, Quán Âm Như Lai phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sinh.

2. Một lòng thanh tinh, không có sự chướng ngại, Bồ Tát thường du hoa nơi biển Nam Hải.

3. Bồ Tát hiện diện trong cõi ta bà này để nghe tiếng kêu cứucứu khổ.

4. Bồ Tát hàng phục các chướng ngạidiệt trừ các hiểm nạn.

5. Bồ Tát dùng nước tịnh bình và nhành dương liễu để tẩy sạch tâm được thanh tịnh.

6. Lòng Đại từ bi, hay hỷ xảthực hành hạnh bình đẳng với tất cả chúng sanh.

7. Ngày đêm thường hành sử hạnh độ sinh, không làm não hại, để cứu độ chúng sinh thoát khỏi ba đường dữ.

8. Một lòng nhất tâm trì niệm danh hiệu Bồ Tát, sẽ ứng hiệngiải thoát khổ nạn.

9. Bồ Tát dong thuyền Bát Nhã, trong cảnh đời sinh tử để độ tận chúng sanh.

10. Dùng tràng phan, bảo cái, để tiếp đưa người sau khi xả báo thân về thế giới tây phương cực lạc.

11. Cảnh giới của Đức Phật Vô Lượng Thọ, được Đức Phật A Di Đà thọ ký.

12. Hình thể đoan nghiêm, tướng hảothành tựu của 12 Đại Nguyện này. 

Từ hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát viết nên bài kệ:

Quan Âm Đại Sỹ

Phổ hiện Viên Thông

Thập nhị Đại nguyện thệ hoằng thâm

Khổ hải phiếm từ phong

Phổ tế tâm dung

Sát sát hiện vô cùng.

Đức Bồ Tát Quan Âm Đại Sỹ

Thường có danh hiệuViên Thông

12 Đại nguyện hoằng hóa độ sinh rộng lớn, sâu xa

Dong chiếc thuyền từ nơi biển đời sanh tử

Để phổ độ hết thảy chúng sinh

Bất cứ nơi nào cũng đều có hiện thân Bồ Tát. 

lòng từ vô lượng, để cứu khổ độ mê mà Bồ Tát Quán Thế Âm được mọi người tôn xưng là Mẹ hiền Quan Âm. Một hình ảnh thật thân thương, hiền hòa và gần gũi như đôi tay của Mẹ ấp ủ con thơ, như ánh mắt Mẹ trìu mến nhìn con trong lòng và ban bố lời ru ngọt ngào cho con ngủ.

Bồ Tát thương chúng sinh như Mẹ hiền thương con đỏ, qua hình ảnh bình nước cam lồ và nhành dương liễu, xóa đi những đau thương của biển đời sinh tử.

Để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi con đường tối tăm, nơi chốn đau thương, Bồ Tát Địa Tạng đã phát lời thệ độ:

Chúng sinh vô tận

Phương chứng Bồ Đề

Địa ngục vi không

Thệ bất thành Phật

Nguyện độ hết thảy chúng sinh

Mới chứng đắc quả vị Bồ Đề

Khi nào địa ngục chưa hết tội nhân

Thì thệ nguyện chưa thành Phật 

Nói đến chúng sinh thì vô số lượng, đếm không cùng nghĩ không tận, mà hạnh nguyện của Bồ Tát là độ hết thảy chúng sinh. Với hạnh độ hết thảy chúng sinh đó, đến bao giờ Bồ Tát mới độ tận? Thật là vô cùng tận, vì ngày nào con chúng sinh, còn đau khổ, thì ngày đó, Bồ Tát còn cần hiện diện trong cuộc đời này.

Qua tinh thần Tứ Hoằng Thệ Nguyện, chúng ta thấy đó chính là tinh thần của Chư Bồ Tát:

“Chúng sinh vô biên...” 

Chúng sinh không số lượng

Thệ nguyện độ đều khắp

Phiền não không cùng tận

Thệ nguyện đều dứt sạch

Pháp môn không kể xiết

Thệ nguyện đều tu học

Phật đạo không gì hơn

Thệ nguyện được viên thành 

Đây là Tứ Hoằng Thệ Nguyện của một hành giả bước đi trên lộ trình giác ngộ, giải thoát. Bồ Tát tự giác ngộ cho mình, giác ngộ cho kẻ khác, và hai sự giác ngộ hoàn toàn viên mãn. Vì trong tự tánh của mỗi chúng sinh đã có tính giác ngộ. Bồ Tát biểu tượng tánh giác ngộ đó là Bồ Tát Đại Trí Văn Thù, biểu trưng cho căn bản trí hay Phật tánh. Bồ Tát Văn Thù ngồi trên Kim mao Sư Tử, có một trí tuệ siêu việt. Đồng thời bên cạnh có Bồ Tát Phổ Hiền ngồi trên con bạch tượng, biểu trưng cho hạnh nguyện độ sinh vô bờ bến. Hạnh Phổ Hiền là dấn thân vào đời để hóa độ, hình ảnh Sư tử Chúa và Tượng vương được diễn tả qua lời kệ:

Sư tử hống thời phương thảo lục

Tượng vương hồi xứ lạc hoa hồng 

Mỗi khi Sư tử hống thì mọi cỏ cây hoa lá đều xanh tươi nhuận sắc. Lúc Tượng vương quay đầu trở về chốn cũ thì hoa hồng nở rộ cung nghinh.

Hạnh nguyện Phổ Hiền được thể hiện qua mười Đại Nguyện:

1. Nhứt giả kính lễ chư Phật.

2. Nhị giả xưng tán Như Lai.

3. Tam giả quảng tu cúng dường.

4. Tứ giả sám hối nghiệp chướng.

5. Ngũ giả tùy hỷ công đức.

6. Lục giả thỉnh chuyển pháp luân.

7. Thất giả thỉnh Phật trụ thế.

8. Bát giả thường tùy Phật Học.

9. Cửu giả hằng thuận chúng sinh.

10. Thập giả phổ gia hồi hướng

Qua mười Đại Nguyện của Bồ Tát, Ngài đã đem thân mình, lễ kính tất cả chư Phật trong mười phương quốc độ. Trong sự lễ kính ấy, Bồ Tát đã tán thán công đức vô lượng của Đức Như Lai. Bồ Tát rộng tu pháp môn cúng dườngsám hối tất cả các nghiệp chướng, để rồi tùy hỷ các công đức và thỉnh đức Phật chuyển pháp luân, công như trụ thế. Bồ Tát thường theo học Phật đạohằng thuận chúng sinh. Cuối cùng xin hồi hướng tất cả cho pháp giới chúng chúng sinh.

Hạnh nguyện Bồ Tát là xả kỷ vị tha, lấy pháp giới chúng sinh làm nhà. Ngài A Nan, thị giả của Đức Phật đã phát nguyện:

Phụng thỉnh Thế Tôn vị chứng minh

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập

Như nhứt chúng sinh vị thành Phật

Chung bất ư thử thủ vê hoàn. 

Con nay xin đảnh lễ phụng thỉnh Đức Thế Tôn chứng minh cho con, cõi đời phiền não năm trược này con nguyện vào trước, nếu như còn có một chúng sinh chưa hóa độ để thành quả vị Phật, thì con nguyện không nhập Niết Bàn.

Hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát:

Một hôm Bồ Tát Duy Ma Cật bị bệnh, Đức Phật sai Ngài A Nan và một vài vị Thánh chúng đến thăm, Ngài A Nan hỏi Bồ Tát Duy Ma Cật:

- Thưa Ngài Bồ Tát, Ngài bị bệnh như thế nào, hôm nay đã khỏe chưa? Ngài có dùng thực phẩm và thuốc uống gì chưa?

- Này A Nan ta nào có bệnh, vì chúng sinh bệnh nên ta bệnh. Bịnh cái bệnh của chúng sinh.

Tâm nguyện của Bồ Tát là khổ trước cái khổ của chúng sinh và vui sau cái vui của chúng sinh. Bồ Tát quên mình để làm lợi ích cho kẻ khác. Mục đích tối hậu của Bồ Tát là ban vui cứu khổ trong ý nghĩa Từ Bi:

Từ năng dữ lạc

Bi năng bạt khổ

Từ là cho niềm vui đến tất cả

Bi là cứu vớt nỗi đau thương

chí nguyện đem hạnh phúc đến cho mọi loài và giải trừ nỗi thống khổ đến tất cả, mà Bồ Tát có ở nơi khốn cùng, hoặc hoàn cảnh khó khăn nào cũng không lấy đó làm buồn khổ.

Một hôm Đức Phật sai Ngài Đề Bà Đạt Đa sống nơi cùng khổ, Ngài A Nan đến thăm và hỏi:

-Thưa Tôn Giả, Tôn Giả có bị đói khát khổ cực không?

Tôn Giả Đề Bà Đạt Đa trả lời:

-Ở đây ta vẫn thấy hỷ lạc như ở cõi Tam Thiền. Thật chẳng thể nghĩ bàn tâm niệmhạnh nguyện độ sinh của Chư vị Bồ Tát.

Vì không biết được hết các hoạt động của Chư vị Bồ Tát, nên Bồ Tát Di Lặc đã để lại bốn câu kệ như sau:

Di Lặc chơn Di Lặc

Phân thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhơn

Thời nhơn thường bất thức


Bồ Tát Di Lặc quả là Ngài

Phân thân thành trăm ngàn vạn ức

Những người sống cùng thời với Bồ Tát

Không biết là Bồ Tát thị hiện độ sinh

Chúng ta, thường được nghe kể về sự hóa độ của Bồ Tát Di Lặc với Thiện Tài Đồng Tử:

“Lúc bấy giờ Bồ Tát Di Lặc thâu nhiếp thân lực, bước vào lầu các, khảy móng tay rồi bảo Thiện Tài Đồng Tử :

- Này Thiện Nam tử, hãy đứng dậy, pháp tánh vốn như thế, do sự tích tụ và tập hợp của các nhân duyên nên hiện ra tướng như thế, tự tánh vốn như thế, không tự thành tựu, như mộng, như huyễn, như ảnh tượng.

Ngay khi ấy Thiện Tài Đồng Tử vừa nghe tiếng khảy móng tay, liền dậy khỏi tam muội. Đức Bồ Tát Di Lặc tiếp tục:

- Ông có thấy những thần thông biến hóa của Bồ Tát, những lưu xuất năng lực của Bồ Tát, sự quảng bá những nguyện và trí của Bồ Tát, vô số trang nghiêm cõi Phật, những thệ nguyện vô thượng của các Đức Như Lai, giải thoát bất khả tư nghì của Bồ Tát, ông có thấy và theo dõi thông suốt những điều đó chăng?

Thiện Tài Đồng Tử nói:

- Bạch Thánh giả, dạ có, ấy là do thần lực gia hộ của Thiện tri thức. Bạch Thánh giả, vậy môn giải thoát này gọi là gì?

Bồ Tát Di Lặc đáp:

- Môn giải thoát này tên là Trang Nghiêm Tạng, trong đó chứa đựng trí nhớ, không hề quên trí tuệ về hết thảy ba nghìn thế giới. Thiện Nam tử, trong môn giải thoát này lại có bất khỏa thuyết, bất khả thuyết môn giải thoát, chỉ có Bồ Tát nhất sinh mới có thể chứng đắc.

- Bạch Thánh giả, những sự trang nghiêm này sẽ đi về đâu?

Bồ Tát Di Lặc đáp:

- Đi về chỗ đến.

Thiện Tài lại hỏi:

- Từ đâu đến?

Bồ Tát Di Lặc:

- ừ thần lực trí tuệ của Bồ Tát mà đến; nương nhờ thần lực trí tuệ của Bồ Tát mà trụ. Không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, không có tích lập, không có gia tăng, không có thường trụ, không có sở trước, không có sở y trên mặt đất hay giữa hư không.

- Này Thiện Nam tử, như Long vương làm mưa lũ: mưa không từ thân tuôn ra, mưa không từ tâm tuôn ra, không có sự tích tập nào trong đó, nhưng mưa tuôn ra từ niệm lực của long vương và mưa tuôn khắp cả thế gian. Điều đó không thể nghĩ bàn.

- Này Thiện Nam tử, những sự trang nghiêm mà ông đã thấy cũng vậy, không từ bên trong mà có, nhưng nó có trước mắt ông, có oai thần của Bồ Tát, vì thiện căn mà ông đã thành tựu.

- Này Thiện Nam tử, như nhà huyễn thuật làm trò huyễn hóa, chúng không từ đâu đến, không đi về đâu, nhưng hiển hiện trước mắt mọi người bởi vì ma lực của chú thuật.

- Cũng vậy, này Thiện Nam tử, những sự trang nghiêm ông đã thấy, chúng không từ đâu đến, không đi về đâu, không tụ tập nơi đâu; chúng hiển hiện là do Bồ Tát muôn tập học như trí huyễn bất khả tư nghì, và do đại oai lực của những nguyện và trí của Bồ Tát.

Thiện Tài:

- Bạch Thánh Giả, Ngài từ đâu đến?

Bồ Tát Di Lặc, liền nói:

- Bồ Tát không đến, không đi, như thế mà đến. Bồ Tát không bước, không dừng, như thế mà đến; không sống không chết, không ở không qua, không rời không dậy, không cầu không thủ, không nghiệp không báo, không sinh không diệt, không thường không đoạn, như thế mà đến.

- Này nữa, Thiện Nam tử, Bồ Tát đến như vậy, đến từ chỗ Đại Bi, vì mong điều phục hết thẩy chúng sinh khỏi những khổ não, đến từ chỗ tịnh giới, vì muốn thọ sinh vào những nơi tùy thích, đến từ chỗ Đại nguyện phải viên mãn, vì năng lực của những thệ nguyện xưa kia; đến từ chỗ thần thông, vì muốn hiện thân theo sở thích chúng sinh; đến từ chỗ không giao động, vì không hề lãng xa gót Phật; đến từ chỗ không thủ xả, vì đi hay đến không nhọc thân tâm; đến từ chỗ trí tuệ phương tiện vì để tùy thuận hết thảy chúng sinh; đến từ chỗ thị hiện biến hóa, vì tất cả hóa hiện đều như ảnh, như tượng.

Như thế đó, này Thiện Nam tử, nhưng ông hỏi ta từ đâu đến. Này Thiện Nam tử, ta đến từ sinh quán xứ Ma La Đề để giảng pháp cho thanh niên tên Cù Ba La và hết thảy mọi người nơi sinh quán của ta tùy theo căn cơ của họ, và cũng để đưa Cha Mẹ, thân quyến, Bà La Mônmọi người vào con đường giác ngộ, giải thoát.” 

Đó là con đường Bồ Tát đi và hạnh nguyện của Bồ Tát hành sử.

Cali, Mạnh Xuân Bính Tuất

Tháng 3 năm 2006

Nguyên Siêu

Source: http://www.quangduc.com/tacgia/thichnguyensieu.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12247)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11014)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10904)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13349)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11771)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13652)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11887)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11156)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12170)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12380)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20564)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12398)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12432)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11698)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11564)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22387)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13548)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29622)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11535)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16706)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11981)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16814)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12053)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17904)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12617)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13141)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14733)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22590)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10567)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14031)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13864)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13696)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13841)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13904)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14813)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13831)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18399)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22777)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15382)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17302)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22395)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14240)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12562)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11144)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17745)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13186)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13088)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18777)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 13485)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12892)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14691)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14635)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15841)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13494)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27409)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13211)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16672)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21366)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18798)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant