Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chánh tínMê tín

20 Tháng Chín 201000:00(Xem: 17648)
Chánh tín và Mê tín

Qua Hình Ảnh Hoa Mạn Đà La Trong Các Lễ Cung Nghinh Phật Ngọc

Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cung nghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.

Trước một sự kiện quan trọng như vậy, thiết nghĩ cần có thêm nhiều ý kiến xây dựng để giúp làm sáng tỏ vấn đề. Trong tinh thần xây dựng đó, người viết bài này xin trình bày một số quan điểm liên quan đến vấn đề chánh tínmê tín trong Phật Giáo nói chung và trong hiện tượng Mạn Đà La của những buổi lễ cung nghinh Phật Ngọc nói riêng.

Trước hết, xin tán tán tinh thần cảnh giác để tránh tình trạng mê tín lan rộng ra làm ảnh hưởng đến chánh tín của người con Phật. Vì bổn phận của người Phật tử là phải nêu cao giá trịlợi ích của chánh tín đối với Tam Bảo, đối với chánh pháp của đức Phật để giúp làm lợi lạc con đường tu tập giải mê trừ hoặc.

Vậy, thế nào là chánh tín và mê tín?

Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo, vào chánh pháp của Phật dạy, là niềm tin giúp con người hướng thiện, bỏ ác làm lành, diệt trừ khổ não, đoạn trừ phiền não tham sân si, giác ngộ chân tánh, đạt tới quả vị giải thoát. Ngược lại, mê tín theo Phật Giáoniềm tin không được thực chứng bởi trí tuệ, là niềm tin không dựa vào nhân quả, nghiệp báo, không tin Tam Bảo, không tin chánh pháp, không giúp con người hướng thiện để bỏ ác làm lành và diệt trừ phiền não tham sân si, là niềm tin không giúp con người giác ngộ chân tánh để đạt tới quả vị giải thoát.

Nhưng, vì chúng sinh có nhiều trình độ căn cơ khác nhau, người lợi căn, kẻ độn căn, cho nên nhận thứcniềm tin đối với chánh pháp cũng có sai biệt. Vì thế, chánh tín cũng có nhiều cấp độ.

Chính vì vậy, đức Phật mở ra Ngũ Thừa để tùy căn cơ mà độ. Ngũ thừaNhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Giống như mở trường dạy học thì phải có chương trình học cho từng cấp như mẫu giáo, tiểu học, trung học đệ nhất cấp, trung học đệ nhị cấp, cao đẳng, đại học và hậu đại học. Nhân thừa lấy việc quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, tu mười điều thiện ở cấp trung bình làm nền tảng. Thiên thừa lấy việc tu tập mười điều thiện trọn vẹnthực hành thiền định làm nền tảng. Thanh Văn thừa lấy việc tu tập theo Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo làm nền tảng để ra khỏi ba cõi sáu đường. Duyên Giác thừa lấy việc quán mười hai nhân duyên: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử làm nền tảng để chấm dứt sanh tử luân hồi, đạt tới sự giác ngộ của quả vị Độc Giác Phật. Bồ Tát thừa lấy việc thực hành sáu ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ làm nền tảng để thành tựu Phật quả cho mình và chúng sinh.

Trong mỗi thừa cũng có căn cơ lợi độn khác nhau và do đó có sự liễu ngộ, chứng đắc khác nhau. Chính vì vậy, không thể đem kiến giảiniềm tin của người thực hành Thừa này so sánh hay thẩm định về kiến giảiniềm tin của người hành trì Thừa kia. Kiến giảiniềm tin của một người ở Nhân thừa làm sao sánh được với kiến giảiniềm tin của vị đã bước vào 4 thánh quả Thanh Văn? Lúc Tổ Bồ Đề Đạt Ma gặp Vua Lương Võ Đế, nhà vua hỏi rằng bao lâu nay làm việc bố thí, đúc tượng, xây chùa thì có công đức không? Tổ Đạt Ma đáp ngay: Không có chút công đức nào cả. Như vậy cũng không có nghĩa là Vua Lương Võ Đế đã làm sai. Tổ nói theo chỗ chứng đắc cao sâu của ngài rằng “tất cả các pháp hữu vi đều là giả như mộng, như quáng nắng, như điện chớp, như bong bóng nước,” thì làm gì có công đức hay không. Còn Vua Lương Võ Đế nương theo pháp hữu vi của Nhân, Thiên thừa để nhập đạo thì làm sao với tới được. Cho nên, Tổ Đạt Ma đã vào núi Thiếu Lâm để ngồi diện bích chờ Thần Quang đến cầu đạo và thấy đúng căn cơ mới đem cốt tủy của Thiền mà “dĩ tâm truyền tâm” cho.

Đức Phật khi mới đắc quả Vô Thượng Bồ Đề dưới gốc cây Tất Bát La đã nhập đại định Hải Ấn Tam Muội nói pháp thượng thừa viên giáo cho hàng đại bồ tát. Ngài còn suy nghĩ với căn cơ kém cỏi của chúng sinh thì làm sao kham nổi để lãnh thọ giáo pháp cao sâu vi diệu mà ngài vừa chứng ngộ. Nhưng, rồi đức Phật suy nghĩ đến cái khổ vô lượngchúng sinh đang gánh chịu, suy nghĩ đến nguyện lực độ sinh của mười phương chư Phật đã, đang và sẽ thực hành, suy nghĩ đến căn cơ sai biệt của chúng sinh giống như sen trong ao bùn: có cái còn ở trong bùn, có cái đã mọc lên khỏi nước, có cái còn búp, có cái đã hé nụ. Cho nên, đức Phật đã quyết định đem giáo pháp mà ngài đã chứng để tùy căn cơ chúng sinhhóa độ.

Vậy mà, phải đợi cho đến gần cuối đời, đức Phật mới nói ra mục tiêu tối thượng nơi hội Linh Sơn, rằng Ngài ra đời để nói pháp Nhất Thừa, độ chúng sinh làm Phật chứ không có thừa nào khác. Nhị thừa, tam thừa chỉ là phương tiện như hóa thành. Nhất thừa mới là bảo thành cứu cánh. Trong hội Pháp Hoa nơi núi Kênh Kênh này, chư thiên đã rải hoa Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, v.v… để cúng dường đức Phậtđại chúng.

Nói như vậy để cho thấy rằng dù đức Phật là vị đã đạt tới giác ngộgiải thoát viên mãn, ngài vẫn thiết lập phương tiện để độ những chúng sinh phước mỏng nghiệp dày, căn cơ thô lậu. Đối với bậc thượng căn, thượng trí quán chiếu các pháp như không hoa, tâm thong dong tự tại không bị trói buộc vào hình danh sắc tướng thì không cần dựa vào hình tượng để làm nghi biểu cho sự tu tập. Nhưng, đối với hàng phàm phu chúng sinh căn trí kém cỏi thì phương tiện không thể bỏ, hình danh sắc tướng không thể phá, mà cần phải biết vận dụng để dìu dắt, như người không biết bơi muốn qua sông thì phải cần đến ghe thuyền.

Từ đó mới thấy rằng việc cung nghinh Phật Ngọc là lợi lạc tâm linh cho nhiều người. Đừng nói đâu xa, chỉ ngay tại thành phố Escondido, thuộc Quận San Diego nơi có Tu Viện Pháp Vương. Hàng chục năm nay, những người Mỹ láng giềng không khi nào bước chân vào, dù có người cũng biết đó là một ngôi chùa Phật Giáo. Nhưng trong thời gian lễ cung nghinh Phật Ngọc vào đầu tháng 2 năm 2010, hàng trăm, hàng ngàn người Mỹ đã về Tu Viện để chiêm bái Phật Ngọc. Bản thân người viết bài này, đã có dịp hỏi chuyện một phụ nữ Mỹ đến dự lễ khai mạc cung nghinh Phật Ngọc vào ngày 7 tháng 2 năm 2010 tại Tu Viện Pháp Vương, được bà cho biết rằng nhà bà ở ngay bên kia đường chỉ cách Tu Viện có mấy chục thước, nhưng lâu nay bà chưa hề vào Tu Viện. Nay bà nghe có Phật Ngọc đến nên mới vào Tu Viện để chiêm ngưỡng.

Có người sẽ cười và nói rằng họ chỉ đến chùa lễ Phật một lần chứ đâu có làm Phật tử trọn đời? Xin đừng quên rằng trong Kinh Pháp Hoa đức Phật dạy rằng, “Dù người với tâm tán loạn vào trong tháp miếu, chỉ một lần niệm Nam Mô Phật thì cũng thành Phật.” Quả vậy, chỉ một lần kết duyên lành với Phật, dù là với tượng Phật Ngọc, thì tương lai sẽ thành Phật. Không quý giá lắm sao?

Sự kiện hoa Mạn Đà La trong các lễ cung nghinh Phật Ngọc là thật hay do người cố tình tạo ra?

Trước hết xin nói qua về hoa Mạn Đà La. Hoa Mạn Đà La là một loại hoa có hình dạng Mạn Đà La dùng để cúng dường chư Phật và Thánh Chúng thường được nhắc đến trong nhiều Kinh Đại Thừa như Kinh A Di Đà, Kinh Pháp Hoa, v.v... Theo Bách Khoa Tự Điển Điện Tử Wikipedia (www.wikipedia.org ), Mạn đà la là dịch âm chữ Hán từ chữ Phạn Mandala, có nghĩa là “vòng tròn,” tức viên dung. Trong truyền thống của Ấn Độ GiáoPhật Giáo, nghệ thuật thiêng liêng của hai tôn giáo này thường lấy hình Mạn đà la làm biểu tượng. Hình thức căn bản của các Mạn đà la trong Ấn giáo và Phật giáo là một hình vuông với bốn cửa chứa đựng trong một vòng tròn với điểm trung tâm ở giữa. Những Mạn đà la này có ý nghĩa tâm linhlễ nghi với Phật giáo và Ấn giáo. Trong Kim Cang Thừa của Phật Giáo Tây Tạng, Mạn đà la đã được phát triển trong nghệ thuật vẽ bằng cát. Mạn đà la cũng là một bộ phận chủ yếu của việc thực hành thiền. Trong Kim Cang Thừa của Phật Giáo Tây Tạng thường dùng Mạn đà la để mô tả Phật độ, hay trí tuệ giác ngộ của Phật, đại biểu tính thường nghiệm và phức tạp của tâm giác ngộ và tâm vọng động, hay là một tiểu vũ trụ tượng trưng cho năng lực siêu việt trong vũ trụ. Những Mạn đà la như vậy gồm phần ngoài là một vòng tròn và phần trong là hình vuông với “tòa” mạn đà la đặt ở giữa. Muốn biết rõ về Mạn Đà La thì có thể vào các trang mạng Phật Giáo Việt Nam để đọc nhiều bài viết giải thích về Mạn Đà La, trong số đó có bài viết khá công phu mang tựa đề “Tìm Hiểu Mạn Đà La” của tác giả Võ Quang Nhân được đăng trên trang nhà Hoa Vô Ưu, Thư Viện Hoa Sen: www.thuvienhoasen.org

Sự kiện hoa Mạn Đà La trong lễ cung nghinh Phật Ngọc là thật. Thật, trong ý nghĩa rằng các hình ảnh đó đã được máy quay phim và máy hình chụp tại chỗ và đưa ngay lên trang mạng trước sự chứng kiến của nhiều tăng, ni và Phật tử mà người viết bài này được biết trực tiếp tại Tu Viện Pháp Vương, thành phố San Diego, Hoa Kỳ, vào lúc khoảng 4 giờ chiều ngày khai mạc, mùng 7 tháng 2 năm 2010, và đêm ngày 16 tháng 2 năm 2010 lúc tiễn tượng Phật Ngọc đi. Thật, trong ý nghĩa hoàn toàn không có bất cứ một hành vi sửa đổi hay tái tạo nào trên những tấm hình đó do Tu Viện Pháp Vương chụp và được đăng trên trang nhà Pháp Vân (www.phapvan.ca), trang nhà Hải Triều Âm (www.haitrieuam.net), trang nhà Quảng Đức (www.quangduc.com), v.v…

Sở dĩ người viết phải nhấn mạnh đến sự kiện “thật, trong ý nghĩa…,” bởi vì đó là những gì chư tăng, ni và phật tử chứng kiến tại chỗ. Nhưng, các hình hoa Mạn Đà La đó chỉ thấy được qua máy thu hình và máy chụp hình mà không thể thấy được bằng mắt bên ngoài trời, nếu không có những máy hình đó. Thấy bằng mắt bên ngoài trờihình ảnh mặt trời biến đổi màu sắc rất kỳ lạ vào buổi chiều lễ Khai Mạc, ngày 7 tháng 2 năm 2010, tại Tu Viện Pháp Vương mà rất nhiều người có mặt tại chỗ đều chứng kiến kể cả người viết bài này.

Có người nói các tấm hình đó là do “phản chiếu ánh đèn sáng,” mà ra. Lúc chụp hình bị ánh đèn phản chiếu tạo ra các hình tròn sáng, thậm chí có màu sắc, là điều bình thường. Vấn đề là, trên các hình hoa Mạn Đà La chụp được trong lễ cung nghinh Phật Ngọc thì hình Mạn Đà La hiện ra rất rõ, không thể nào nhầm lẫn với hình do ánh đèn phản chiếu được.

Người viết bài ngày chỉ đề cập đến hình hoa Mạn Đà La được chụp tại Tu Viện Pháp Vương bởi vì chính bản thân người viết trực tiếp biết việc này. Người viết cũng tin chắc rằng chư tăng, ni và phật tử tại những ngôi chùa khác có cung nghinh Phật Ngọc và có hình hoa Mạn Đà La đều là thật, nghĩa là các hình đó được chụp và đưa lên mạng trực tiếp chứ không qua bất cứ sự sửa đổi, giả tạo nào cả. Nhiều bản tin và bài viết tường thuật về sự kiện hoa Mạn Đà La trong các lễ cung nghinh Phật Ngọc ở nhiều chùa tại Hoa Kỳ trong thời gian qua đã cho thấy mức độ khả tín và chính xác như thế nào.

Tin hình hoa Mạn Đà La chụp được trong các lễ cung nghinh Phật Ngọc có phải là mê tín?

Khi chứng kiến hình ảnh kỳ diệu của ánh mặt trời đổi sắc và khi nhìn những tấm hình hoa Mạn Đà La qua máy chụp hình trong đêm cung tiễn Phật Ngọc tại Tu Viện Pháp Vương, người viết bài này đã thấy những xúc động, những giọt nước mắt trên gương mặt hoan hỷ của nhiều người vì cảm kích một sự kiện hy hữu trong đời. Người viết bài này và nhiều Phật tử có mặt đều có cùng cảm nghĩ, rằng sự kiện hoa Mạn Đà La làm vững mạnh thêm chánh tín cho mình, bởi vì qua đó có thể thâm cảm rằng:

- Phật đúng là bậc thầy của trời và người. Tượng Phật Ngọc mà còn được cung kính rải hoa Mạn Đà La cúng dường như vậy thì đức Phật báo ứng thân càng được tôn kính biết bao nhiêu. Từ đó mới thấy rằng ân đức, đoạn đứctrí đức của Phật quả thật bao la vô lượng.

- Những gì Phật dạy trong kinh là hoàn toàn thật. Chẳng hạn, kinh diễn tả cảnh hoa Mạn Đà La được rải xuống để cúng dường Phật, thì hình ảnh hoa Mạn Đà La trong lễ cung nghinh Phật Ngọc là một bằng chứng cho thấy đó là sự thật.

- Nhờ tăng trưởng chánh tín như vậy, càng tin sâu Tam Bảo, tin sâu nhân quả, nghiệp báo và càng nỗ lực thực hành theo lời Phật dạy.

Niềm tin giúp củng cố thêm đạo tâm, thêm niềm tin với Tam Bảo để tiếp tục vững bước trên con đường học và tu đối với Phật Pháp như vậy làm sao là mê tín?

Đối với người viết, vấn đề thật sự đơn giảndễ hiểu, bởi vì, chúng ta, những Phật tửnhân gian, đối với tượng Phật Ngọc vì tôn kính như là hình ảnh biểu tượng của đức Phật, cho nên đã dâng hoa để cúng dường ngài, thì chư thiên cũng vậy, họ cũng tôn kính tượng Phật Ngọc nên đã rải hoa Mạn Đà La để cúng dường.

Vấn đề là cần cảnh giác để ngăn chận những thị phi bất thiện là đừng khởi tâm phân biệt, đừng nghĩ rằng sự kiện hoa Mạn Đà La xảy ra nhiều trong các buổi lễ cung nghinh Phật Ngọc tại các chùa là chuyện không thể có, hay thậm chí là chuyện bịa đặt để lôi cuốn quần chúng nhằm mục đích làm lợi cho chùa. Xin cũng đừng nghĩ rằng chùa nào rước Phật Ngọc mà có hoa Mạn Đà La mới là chùa linh. Những suy nghĩ như vậy sẽ đánh mất chánh tín của người con Phật.

Sự mầu nhiệm của Phật Pháp không thể lấy lý trí phàm phu hay tâm phân biệt để đo lường được.

Sự cảm ứng là do nhân duyên đầy đủ. Ngay như thời Phật còn tại thế đâu phải ai cũng được Phật độ dù là có dịp gặp ngài trên đường du hóa, vì chuyện Phật độ hết chúng sinh trong một đời thị hiện của ngài là điều không thể có được. Chính đức Phật cũng dạy rằng những ai có duyên được độ thì ngài đã độ. Những ai không có duyên thì ngài cũng đã tạo duyên để được độ trong tương lai qua phương thức chánh pháp lưu truyền.

Tóm lại, đã tin lời Phật dạy, tin kinh điểnchánh pháp thì sự kiện hoa Mạn Đà La xuất hiện trong các lễ cung nghinh Phật Ngọc cũng là điều phù hợp với chánh lý, là chánh tín, chứ không phải mê tín.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17362)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18570)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12478)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11691)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13018)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12044)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12384)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11543)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11890)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10520)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10834)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28159)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11047)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11277)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13502)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 10962)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11341)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10803)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11097)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26177)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12286)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14790)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 10956)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20195)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12248)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11384)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10667)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23778)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11760)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12183)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12674)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 10951)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38561)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10439)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12053)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17565)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24870)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10422)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10633)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 11929)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11191)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11515)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14617)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21338)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9789)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11155)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11082)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11718)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 10892)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14200)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11374)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12549)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12155)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 10935)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10808)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13233)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11668)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13553)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11792)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant