Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những giá trị sống trong một viễn cảnh Phật giáo

20 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14155)
Những giá trị sống trong một viễn cảnh Phật giáo
Xã hội hôm nay đã được cải thiện rất nhiều về phương diện vật chất, nhưng những giá trị hạnh phúc của con người thì không theo đó mà thăng tiến. Đời sống xã hội hiện tại đang phải đối mặt với nhiều vấn nạn về đạo đức, môi trường sinh thái… và đang rất cần một giải pháp.

Trong truyền thống dân tộc, với lịch sử gắn bó lâu đời, đạo Phật sẽ giới thiệu hướng đi nào trong việc thiết định các giá trị sống phù hợp với hôm nay?

Một xã hội quan niệm giá trị sống như thế nào sẽ được định hình và tiến bộ theo những giá trị đó. Chúng ta thấy rằng nhiều xã hội trong thế kỷ XX quan niệm giá trị sống là sự thành công về mặt vật chất, hưởng thụ được nhiều về mặt vật chất, và do đó định hình thành cái mà chúng ta đã từng gọi là xã hội tiêu thụ với sự nảy sinh của các cuộc khủng hoảng đạo đức, môi sinh, xã hội…

Trong khi đó, khoa học tự nhiên lại không liên hệ gì đến vấn đề này. Ý kiến của nhà khoa học và cũng là nhà sư Phật giáo Matthieu Ricard trong cuộc đối thoại với GS. Trịnh Xuân Thuận: “Thế nhưng các ngành khoa học tự nhiên lại tỏ ra bất lực không giải đáp được những cơ bản của nhân sinh. Sự bất lực cũng không có gì đáng trách, bởi lẽ những ngành khoa học đó không bao giờ đề ra mục đích giúp chúng ta tìm kiếm hạnh phúc hay tạo ra hòa bình xung quanh chúng ta. Các ngành khoa học cơ bản của khoa học tự nhiên chỉ có mục đích mô tảtìm hiểu tự nhiên.

Tuy ý định đó là đáng khen, thế nhưng ngiên cứu hóa học các vì sao hay phân loại côn trùng không thể có ý nghĩa quan trọng bằng những vấn đề cơ bản nhất của nhân sinh. Nếu chúng ta xét những giây phút có ý nghĩa nhất của đời mình, thì chúng ta phải nói tới tình yêu, tình bạn, tình thương, niềm vui của sự sống, vẻ đẹp của thiên nhiên, niềm vui nội tâm, tình thương đồng loại…Nói chung khoa học không có tiếng nói trong những vấn đề như vậy”. (NSGN số 72)

Chúng ta cũng biết Đức Phật, một con người đã trở thành hoàn hảo, toàn thiệntoàn diện, một con người trọn vẹn Bi Trí Dũng. Như thế Ngài đã thành tựu những giá trị sống là hạnh phúc, bình an, trí tuệ, từ bi, trong sạch, vĩnh viễn hết khổ, không sợ hãi, sống vì hạnh phúc cho mọi người… mà trong kinh điển nói là muôn hạnh muôn đức.

Chỉ lấy một đoạn trong phẩm Bồ Tát hạnh của kinh Duy Ma Cật, nói về ‘Bồ tát (người hướng đến sự toàn thiệntoàn diện của chính mình và những người khác) chẳng hết hữu vi’.

Đoạn kinh ấy nêu ra những phẩm tính, hay những đức hạnh, hay những giá trị sống của một con người tiến bộ đến chỗ hoàn hảo: “Không rời đại từ, không bỏ đại bi, phát khởi tâm sâu xa không hề xao lãng, trí tuệ rốt ráo, giáo hóa không bao giờ biết mỏi mệt, thường nhớ và làm theo bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không tiếc tánh mạng mà giữ gìn chánh pháp, tâm trí an trụ thường hướng về người khác, không biếng nhác, không keo kiệt, nỗ lực phụng sự, không sợ hãi, với vinh nhục không mừng lo, không khinh người, kính trọng nguời, cứu vớt bảo bọc những người yếu đuối, thực hành những điều lành không có giới hạn, lấy những sự trang nghiêm của cõi Tịnh độ mà xây dựng cho cõi nước mình; bố thí vô hạn; trừ bỏ mọi cái xấu và làm sạch thân khẩu ý; sanh tử vô số kiếp mà ý chí dũng liệt; gánh vác chúng sinh làm cho vĩnh viễn giải thoát; đại tinh tấn; ít ham muốn biết vừa đủ mà chẳng bỏ việc đời; dẫn dắt người khác; từ bi hỷ xả…”

Chúng ta có thể nói rằng ở đời này, có bao nhiêu lý tưởng sống, bao nhiêu gia trị sống, bao nhiêu đức tính cho một con người hoàn hảo thì chúng ta đều được tìm thấy trong những giáo lýĐức Phật đã dạy. Và những giá trị sống ấy đã trải quatồn tại trong làn sóng văn minh nông nghiệp thứ nhất thời Đức Phật, đến làn sóng văn minh công nghiệp thứ hai, và bây giờ là làn sóng văn minh hậu công nghiệp thứ ba, với sự kiệnhiện giờ người dân Âu – Mỹ càng ngày càng tìm đến Phật giáo như một giải pháp cho cuộc đời hiện đại của họ.

Nhưng những giá trị sống, hay những đức tính của một con người đang tiến bộ đến chỗ tự hoàn thiện, đặt căn bản trên quy luật khách quan nào không và đem lại những kết quả ra sao ?

Thứ nhất, theo đạo Phật, những giá trị sống ấy đặt căn bản trên định luật nhân quả, nghĩa là nếu chúng ta sống theo những giá trị sống ấy thì chúng không mất đi, không vô cớ biến thành ra một cái khác vô bổ và chúng có kết quả trên toàn bộ con người của chúng ta (cả hai mặt thân và tâm). Chẳng hạn chúng ta gieo trồng một lý tưởng sống là bố thí, hiến tặng, chia sẻ thì nó không thể có kết quả ngược lại về mặt thân là chúng ta sẽ chịu kết quả nghèo túng và về mặt tâm là chúng ta càng trở nên keo kiệt.

Hoặc chúng ta thực hành để loại trừ tính khí nóng giận của mình mà nó lại ra kết quả ngược lại là càng ngày càng nóng giận hơn, chỉ trừ thực hành sai! Nếu chúng ta sống theo không sát hại, bất bạo động thì theo định luật nhân quả, về thân chúng ta có thêm thọ mạng, về tâm chúng ta có thêm từ bi, và không thể ngược lại. Như vậy, chính định luật nhân quả làm cho một giá trị sống thành ra giá trị, vì nó không thể đưa đến cái khác được, không thể thành ra cái không giá trị.

Thứ hai, do định luật nhân quả mà những giá trị sống phải đưa đến kết quả là hạnh phúc của cả thân và tâm, phải đưa người ta tiến lên cao mà không phải đưa người ta xuống thấp, như xuống mức sống thú vật chẳng hạn. Làm một hành động như bố thí, về thân chúng ta sẽ được hạnh phúc là không thiếu thốn, về tâm là lòng chúng ta có niềm vui, bao la, rộng mở.

Đứng về mặt tâm mà nói, ngay khi chúng ta cho cái gì, chúng ta thọ hưởng ngay niềm vui, hạnh phúc. Khi chúng ta cho đi một tấm lòng tốt, thì lòng tốt thêm tràn đầy nơi ta, như khi cầm một cái gì thơm hương cho ai, trước khi người đó nhận được, chúng ta có mùi hương ấy ở tay và tâm hồn chúng ta.

Như thế, những giá trị sống theo đạo Phật đương nhiên phải dựa trên định luật khách quan là nhân quả, và kết quả của nó là hạnh phúc, đưa con người ta tiến hóa hướng lên, hoàn thiện tự thân con người ấy.

Chính hai yếu tố này làm cho một cách sống nào đó trở thành giá trị, và đó là cái chúng ta gọi là giá trị sống. Và ngược lại, những cái gì đem lại khổ đau, không đem lại hạnh phúc, đem lại sự xuống cấp không đem lại sự nâng cấp, cả cho mình và cho người, những cái đó không thể gọi là giá trị sống được.

Như trên đã nói, chúng ta không thể kể hết những giá trị sống, những đức tính cần có để con người có thể trở nên hoàn thiện, trở nên hanh phúc – vì hạnh phúc phải là một phẩm tính không thể không có trong sự hoàn thiện. Ở đây chúng ta chỉ khảo sát những giá trị sống tập trung vào ba điểm: giá trị sống của một người trong tương quan với chính cá nhân mình, trong tương quan với những người khác và tương quan với thiên nhiên.

1. Giá trị sống trong tương quan với chính cá nhân mình: Ít phiền não, nhiều an vui, ít đau khổ, nhiều hạnh phúc.

Thông thường chúng ta ai cũng ngán ngại những người có lòng tham bất kể lương tri, pháp luật, có sự nóng giận thường trực, có sự si mê ngoan cố, có sự kiêu mạn điên rồ, có sự nghi ngờ điều động tất cả thái độ sống… Những cái đó đạo Phật gọi là phiền não.

Ai cũng biết rằng nếu chúng ta càng ít những phiền não ấy, chúng ta càng an vui: và càng có nhiều phiền não ấy, chúng ta càng mất an vui. Phiền não là cái phá hoại tệ hại nhất, kẻ thù nguy hiểm nhất ở trong ta, phá hoại đời sống an vui của chúng ta.

Phiền não khiến chúng ta không thể làm việc có năng suất, không thể tập trung để đọc sách, để nghe âm nhạc, không thể thưởng thức sự êm ả của một buổi chiều, một cội cây, một gia đình, vui đùa cùng em bé, phiền não khiến cho một tiếng chim kêu cũng bực mình, phiền não làm cho những mối tương quan thân quen thành ra bị nhiễm độc, phiền não che ám những mối tương quan với toàn thể đời sống.

Không bị phiền não sai sử là một giá trị của con người nói chung. Nhưng với đạo Phật, vấn nạn này được đào sâu đến tận gốc rễ và giải quyết dứt điểm. Những phiền não ấy tuy chỉ là những cái không có bản chất, tạm thời, “ký sinh” – như những đám mây tạm thời che mặt trời – nhưng ở mức độ tâm thức của người bình thường, chúng che ám hoàn toàn nguồn tâm đầy ánh sáng của trí tuệ, nước mát của từ bi và cội nguồn an lạc.

Trong quan điểm đạo Phật, một con người càng nhiều phiền não thì được đánh giá thấp, càng ít phiền não được đánh giá cao, bất kể người đó có hoàn cảnh ra sao, bởi vì càng nhiều phiền não người đó càng điên đảo, càng tự làm hại mình, và phiền não sẽ tác động bên ngoài làm khổ những người xung quanh.

Phiền não và an vui tỷ lệ nghịch với nhau. Càng ít phiền não thì càng an vui, càng không hao tán năng lực cho nên càng lành mạnh sống động, càng quan tâm và sẵn sàng làm việc vì lợi ích cho những người khác.

Cho nên một trong những giá trịtiêu chuẩn để đo giá trị con người tiến bộ bao nhiêu là sự nhiều hay it phiền não và cái đối nghịch của nó là ít hay nhiều an vui. Tột đỉnh của điều này là không có phiền não, tức là hoàn toàn an vui, đó là mục đích của đời ngườiđạo Phật gọi là giải thoát.

Tiêu chuẩn trên có thể diễn tả thành ít khổ đau và nhiều hạnh phúc. Khi nói đến phiền não và an vui, chúng ta chú trọng đến mặt tâm hơn, và khi nói đến khổ đau và hạnh phúc chúng ta nói đến cả mặt tâm lẫn thân, nghĩa là toàn bộ cuộc sống vật chất và lẫn tinh thần của con người.

Để có ít khổ đau và nhiều hạnh phúc, chúng ta không làm những hành động xấu về thân và tâm để bị đưa đến những khổ đau về thân và tâm. Thay vào đó, chúng ta làm những hành động tốt về thân và tâm để đưa đến những hạnh phúc về thân và tâm.

Tất cả đêu dựa vào nhân quả, tóm gọn thành: không có điều gì xấu sẽ xảy ra với chúng ta nếu nơi chúng ta không có nhân của cái đó, và điều gì tốt sẽ xảy ra nếu nơi chúng ta có nhân của cái đó. Đây là nền tảng để có một cuộc sống hạnh phúc, không lo sợ, ngược lại tràn đầy niềm tin sống.

Khá nhiều người nghĩ rằng đạo Phật cho “đời là bể khổ”, đạo Phật có vẻ bi quan. Nhưng thật ra, khổ đau chỉ là một nhận xét của đạo Phật về cuộc sống bình thường của chúng ta. Ý nghĩa thực sự và sống còn của đạo Phật là sự tận diệt khổ đau. Khổ đau với đạo Phật là cái xấu cần phải trừ bỏ. Bởi thế giá trị sống của đạo Phật là hãy sống sao cho, bây giờ và mai sau, ít khổ đau và nhiều hạnh phúc.

Chúng ta thấy Đức Phật được xưng là Lưỡng Túc Tôn, đầy đủ hai sự tích tập: phước đứctrí tuệ. Cuộc đời đầy thuận lợi của Đức Phật từ gia đình cho đến đệ tử nói lên sự tích tập phước đức của Ngài. Và sự giải thoát vĩnh viễn khỏi khổ đau nói lên sự tích tập trí tuệ của Ngài.

Cho nên khổ đau và hạnh phúc, cả vật chất lẫn tinh thần, là một tiêu chuẩn để đánh giá một con người. Ít khổ đau và nhiều hạnh phúc là một giá trị sống căn bản cho mỗi cá nhân, không kể người ấy có biết đạo Phật hay không.

Nhưng nếu một người nào cho đó là một giá trị thật sự cho cuộc sống của mình, người đó sẽ thấy rằng đạo Phật bao gồm đầy đủ những phương tiện để mỗi cá nhân có thể thực hiện được tiêu chuẩn đó, và nhờ thế mà thấu hiểu được ý nghĩa của việc có mặt của mình ở trên cuộc đời này.

2. Giá trị sống trong tương quan với người khác: Đem lại nhiều hạnh phúc và ít khổ đau cho những người khác

Thông thường chúng ta vẫn xem người nào sống mà đem lại hạnh phúc cho nhiều người, sống có ích cho nhiều người, là vĩ nhân, là thánh nhân; còn người nào sống mà đem lại khổ đau cho nhiều người, sống mà làm hại nhiều người, là những “tội phạm của nhân loại”.

Ở mức độ nhỏ hẹp của một cuộc sống bình thường, một người sống có tình có lý, có một ít lòng tốt, tình thương, nhẫn nại, khoan dung, khiêm hòa với những người chung quanh, thì khi người đó chết đi, cái nổi bật trong trí nhớ những người thân quen là những giá trị sống, những phẩm tính, tấm lòng của người kia.

Cho nên cuộc sống nào càng đem lại sự tốt đẹp, hạnh phúc cho nhiều người thì cuộc sống đó càng có giá trị, và cuộc sống nào đem lại sự xấu kém, khổ đau cho người khác thì cuộc sống đó càng kém giá trị.

Ở đây chúng ta chú ý đến mối liên hệ biện chứng, hữu cơ giữa việc làm lợi cho người khác, làm cho người khác hạnh phúc và sự hoàn thiện của riêng của cá nhân, hay là mối liên hệ giữa lợi mình và lợi người, nói theo ngôn ngữ Phật giáo.

Thứ nhất, nếu người ta càng ít phiền não bao nhiêu, người ta càng có ích, càng đem lại hạnh phúc cho người khác chừng đó. Nếu một công việc làmhạnh phúc của người khác bắt nguồn từ một động cơ được xem là không phiền não, tiến hành trong một trạng thái được xem là không phiền não thì kết quả phụng sự cho người khác là rất to lớn từ mặt vật chất đến bề sâu tâm thức.

Thiền sư Vạn Hạnh ngày xưa và Mahatma Gandhi là một thí dụ.

Thứ hai, khi làm cho một người hay một số người hạnh phúc, chúng ta liền hạnh phúc, và ngược lại. Khi làm cho người khác tiến bộ, nâng cấp cho người khác, giúp đỡ cho người khác thì tự chúng ta lại càng tiến bộ thêm; được nâng cấp và giúp đỡ thêm. Cho nên một ý của đạo Phật là người đi trên con đường tự hoàn thiện cần cảm ơn, biết ơn người khác. Nếu không có họ, lấy ai để hành bố thí, nhẫn nhục, lấy ai để tích tập công đức, để trau giồi những giá trị sống hay là những phẩm tính cao cả của bản thân mình?

Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình. Như thế, lợi mình lợi người là hai cái không thể tách rời nhau trong một tâm thức tiến bộ, nghĩa là bao la và sâu thẳm, mà đạo Phật gọi là Bồ đề tâm. Bởi thế lợi mình và lợi người là không hai, và là ý nghĩa, hạnh phúc của con người trên mặt đất này.

3. Giá trị sống trong tương quan với thế giới tự nhiên: ít phá hoại, nhiều nuôi dưỡng

Chúng ta thấy trong giới luật đạo Phật, sự không xài phí quá mức tài nguyên thiên nhiên thể hiện rất rõ: giặt y áo không được dùng quá nhiều nước, không làm ô nhiễm nguồn nước (nhổ nước bọt, đổ chất thải…) không chặt cây khi không nhận thấy là rất cần thiết, không đốt lửa thiếu cẩn trọng… Tất cả nói lên sự ít xâm phạm thiên nhiênđể dành cho người khác. Nói đến nước, chúng ta đều biết là một vấn nạn của thế kỷ XXI là loài người bị thiếu nước. Như thế, chúng ta thấy cái nhìn của đạo Phật về thiên nhiên thật sâu xa.

Đạo Phật không chủ trương không can thiệp đến thiên nhiên để thiên nhiên vẫn là hoang sơ, nguyên phác. Nhưng đạo Phật quan niệm thiên nhiên cần được cải tạo, sửa sang để thiên nhiên là một thiên nhiên được nâng cấp, được nhân tính hóa chứ không phải là một thiên nhiên bị hủy hoại vì những phiền não của con người mà trong đó tham lam là chủ yếu.

Trong một ý nghĩa, chủ trương “ít muốn, biết đủ” (thiểu dục tri túc) của đạo Phật là sự tôn trọng thế giới tự nhiên, bao gồm thực vật, sinh vật và cả loài vô cơ, vô tình, đất, nước, lửa, gió, không khí. Tôn trọng thiên nhiên là một phần của sự tôn trọng toàn bộ thế giới, trong đó bao gồm ta, người, và toàn bộ thiên nhiên.

Cho nên ít phá hoại, nhiều nuôi dưỡng, ít đem lại “khổ đau” cho thiên nhiên, đem lại nhiều “hạnh phúc” cho thiên nhiêngiá trị sống của bất kỳ con người nào, vì ai cũng biết thiên nhiên là một phần của thân tâm con người.

Để kết luận, chúng ta thấy những giá trị sống, những đức tính lý tưởng của cuộc đời đều có trong đạo Phật. Nhưng đạo Phật không chỉ nêu lên những giá trị sống, những đức tính lý tưởng để rồi chỉ mơ tưởng và rồi trở thành một lý thuyết không tưởng, một đạo đức học hay nhân sinh quan không tưởng. Với đạo Phật không chỉ có tiêu chuẩn lý tưởng (cảnh) mà còn có phương pháp thực hành (hạnh) để cuối cùng đạt đến kết quả hiện thực (quả). Chính sự thực hành cụ thể làm cho những lý tưởng đó trở thành hiện thực trong đời sống.

Như vậy, những giá trị sống của đạo Phật vẫn là những giá trị sống của cuộc đời bình thường, có điều đạo Phật giúp chúng ta phân biệt rõ ràng đâu là một giá trị sống có “giá trị” hơn, nghĩa là mức độ ảnh hưởng của nó rộng lớn, lâu dài và đem lại những kết quả tốt hơn cho mình và cho người.

Hơn nữa, đạo Phật còn cho chúng ta cách sống những giá trị ấy, những thực hành để làm cho những giá trị sống ấy hiện thực thành chính đời sống của mỗi con người. Đạo Phật vừa giới thiệu, định giá những giá trị, những tiêu chuẩn sống, đồng thời giúp hiện thực hóa những giá trị tiêu chuẩn ấy, như thế, đạo Phật trở thành con đường bao trùm toàn bộ bước đầu cho đến bước cuối của những giá trị sống, cho nên có thể nói rằng đạo Phậtgiá trị sống sâu rộng mà cao tột bao trùm toàn bộ đời sống.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17363)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18570)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12478)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11691)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13020)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12045)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12384)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11543)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11890)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10522)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10835)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28161)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11047)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11278)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13503)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 10962)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11341)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10806)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11097)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26177)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12289)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14793)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 10957)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20195)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12249)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11384)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10667)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23779)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11760)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12189)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12675)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 10951)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38563)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10440)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12053)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17566)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24872)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10424)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10635)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 11930)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11191)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11516)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14618)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21338)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9789)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11157)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11085)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11719)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 10892)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14201)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11375)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12549)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12158)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 10936)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10809)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13234)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11668)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13557)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11794)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant