Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những giá trị sống trong một viễn cảnh Phật giáo

20 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14234)
Những giá trị sống trong một viễn cảnh Phật giáo
Xã hội hôm nay đã được cải thiện rất nhiều về phương diện vật chất, nhưng những giá trị hạnh phúc của con người thì không theo đó mà thăng tiến. Đời sống xã hội hiện tại đang phải đối mặt với nhiều vấn nạn về đạo đức, môi trường sinh thái… và đang rất cần một giải pháp.

Trong truyền thống dân tộc, với lịch sử gắn bó lâu đời, đạo Phật sẽ giới thiệu hướng đi nào trong việc thiết định các giá trị sống phù hợp với hôm nay?

Một xã hội quan niệm giá trị sống như thế nào sẽ được định hình và tiến bộ theo những giá trị đó. Chúng ta thấy rằng nhiều xã hội trong thế kỷ XX quan niệm giá trị sống là sự thành công về mặt vật chất, hưởng thụ được nhiều về mặt vật chất, và do đó định hình thành cái mà chúng ta đã từng gọi là xã hội tiêu thụ với sự nảy sinh của các cuộc khủng hoảng đạo đức, môi sinh, xã hội…

Trong khi đó, khoa học tự nhiên lại không liên hệ gì đến vấn đề này. Ý kiến của nhà khoa học và cũng là nhà sư Phật giáo Matthieu Ricard trong cuộc đối thoại với GS. Trịnh Xuân Thuận: “Thế nhưng các ngành khoa học tự nhiên lại tỏ ra bất lực không giải đáp được những cơ bản của nhân sinh. Sự bất lực cũng không có gì đáng trách, bởi lẽ những ngành khoa học đó không bao giờ đề ra mục đích giúp chúng ta tìm kiếm hạnh phúc hay tạo ra hòa bình xung quanh chúng ta. Các ngành khoa học cơ bản của khoa học tự nhiên chỉ có mục đích mô tảtìm hiểu tự nhiên.

Tuy ý định đó là đáng khen, thế nhưng ngiên cứu hóa học các vì sao hay phân loại côn trùng không thể có ý nghĩa quan trọng bằng những vấn đề cơ bản nhất của nhân sinh. Nếu chúng ta xét những giây phút có ý nghĩa nhất của đời mình, thì chúng ta phải nói tới tình yêu, tình bạn, tình thương, niềm vui của sự sống, vẻ đẹp của thiên nhiên, niềm vui nội tâm, tình thương đồng loại…Nói chung khoa học không có tiếng nói trong những vấn đề như vậy”. (NSGN số 72)

Chúng ta cũng biết Đức Phật, một con người đã trở thành hoàn hảo, toàn thiệntoàn diện, một con người trọn vẹn Bi Trí Dũng. Như thế Ngài đã thành tựu những giá trị sống là hạnh phúc, bình an, trí tuệ, từ bi, trong sạch, vĩnh viễn hết khổ, không sợ hãi, sống vì hạnh phúc cho mọi người… mà trong kinh điển nói là muôn hạnh muôn đức.

Chỉ lấy một đoạn trong phẩm Bồ Tát hạnh của kinh Duy Ma Cật, nói về ‘Bồ tát (người hướng đến sự toàn thiệntoàn diện của chính mình và những người khác) chẳng hết hữu vi’.

Đoạn kinh ấy nêu ra những phẩm tính, hay những đức hạnh, hay những giá trị sống của một con người tiến bộ đến chỗ hoàn hảo: “Không rời đại từ, không bỏ đại bi, phát khởi tâm sâu xa không hề xao lãng, trí tuệ rốt ráo, giáo hóa không bao giờ biết mỏi mệt, thường nhớ và làm theo bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không tiếc tánh mạng mà giữ gìn chánh pháp, tâm trí an trụ thường hướng về người khác, không biếng nhác, không keo kiệt, nỗ lực phụng sự, không sợ hãi, với vinh nhục không mừng lo, không khinh người, kính trọng nguời, cứu vớt bảo bọc những người yếu đuối, thực hành những điều lành không có giới hạn, lấy những sự trang nghiêm của cõi Tịnh độ mà xây dựng cho cõi nước mình; bố thí vô hạn; trừ bỏ mọi cái xấu và làm sạch thân khẩu ý; sanh tử vô số kiếp mà ý chí dũng liệt; gánh vác chúng sinh làm cho vĩnh viễn giải thoát; đại tinh tấn; ít ham muốn biết vừa đủ mà chẳng bỏ việc đời; dẫn dắt người khác; từ bi hỷ xả…”

Chúng ta có thể nói rằng ở đời này, có bao nhiêu lý tưởng sống, bao nhiêu gia trị sống, bao nhiêu đức tính cho một con người hoàn hảo thì chúng ta đều được tìm thấy trong những giáo lýĐức Phật đã dạy. Và những giá trị sống ấy đã trải quatồn tại trong làn sóng văn minh nông nghiệp thứ nhất thời Đức Phật, đến làn sóng văn minh công nghiệp thứ hai, và bây giờ là làn sóng văn minh hậu công nghiệp thứ ba, với sự kiệnhiện giờ người dân Âu – Mỹ càng ngày càng tìm đến Phật giáo như một giải pháp cho cuộc đời hiện đại của họ.

Nhưng những giá trị sống, hay những đức tính của một con người đang tiến bộ đến chỗ tự hoàn thiện, đặt căn bản trên quy luật khách quan nào không và đem lại những kết quả ra sao ?

Thứ nhất, theo đạo Phật, những giá trị sống ấy đặt căn bản trên định luật nhân quả, nghĩa là nếu chúng ta sống theo những giá trị sống ấy thì chúng không mất đi, không vô cớ biến thành ra một cái khác vô bổ và chúng có kết quả trên toàn bộ con người của chúng ta (cả hai mặt thân và tâm). Chẳng hạn chúng ta gieo trồng một lý tưởng sống là bố thí, hiến tặng, chia sẻ thì nó không thể có kết quả ngược lại về mặt thân là chúng ta sẽ chịu kết quả nghèo túng và về mặt tâm là chúng ta càng trở nên keo kiệt.

Hoặc chúng ta thực hành để loại trừ tính khí nóng giận của mình mà nó lại ra kết quả ngược lại là càng ngày càng nóng giận hơn, chỉ trừ thực hành sai! Nếu chúng ta sống theo không sát hại, bất bạo động thì theo định luật nhân quả, về thân chúng ta có thêm thọ mạng, về tâm chúng ta có thêm từ bi, và không thể ngược lại. Như vậy, chính định luật nhân quả làm cho một giá trị sống thành ra giá trị, vì nó không thể đưa đến cái khác được, không thể thành ra cái không giá trị.

Thứ hai, do định luật nhân quả mà những giá trị sống phải đưa đến kết quả là hạnh phúc của cả thân và tâm, phải đưa người ta tiến lên cao mà không phải đưa người ta xuống thấp, như xuống mức sống thú vật chẳng hạn. Làm một hành động như bố thí, về thân chúng ta sẽ được hạnh phúc là không thiếu thốn, về tâm là lòng chúng ta có niềm vui, bao la, rộng mở.

Đứng về mặt tâm mà nói, ngay khi chúng ta cho cái gì, chúng ta thọ hưởng ngay niềm vui, hạnh phúc. Khi chúng ta cho đi một tấm lòng tốt, thì lòng tốt thêm tràn đầy nơi ta, như khi cầm một cái gì thơm hương cho ai, trước khi người đó nhận được, chúng ta có mùi hương ấy ở tay và tâm hồn chúng ta.

Như thế, những giá trị sống theo đạo Phật đương nhiên phải dựa trên định luật khách quan là nhân quả, và kết quả của nó là hạnh phúc, đưa con người ta tiến hóa hướng lên, hoàn thiện tự thân con người ấy.

Chính hai yếu tố này làm cho một cách sống nào đó trở thành giá trị, và đó là cái chúng ta gọi là giá trị sống. Và ngược lại, những cái gì đem lại khổ đau, không đem lại hạnh phúc, đem lại sự xuống cấp không đem lại sự nâng cấp, cả cho mình và cho người, những cái đó không thể gọi là giá trị sống được.

Như trên đã nói, chúng ta không thể kể hết những giá trị sống, những đức tính cần có để con người có thể trở nên hoàn thiện, trở nên hanh phúc – vì hạnh phúc phải là một phẩm tính không thể không có trong sự hoàn thiện. Ở đây chúng ta chỉ khảo sát những giá trị sống tập trung vào ba điểm: giá trị sống của một người trong tương quan với chính cá nhân mình, trong tương quan với những người khác và tương quan với thiên nhiên.

1. Giá trị sống trong tương quan với chính cá nhân mình: Ít phiền não, nhiều an vui, ít đau khổ, nhiều hạnh phúc.

Thông thường chúng ta ai cũng ngán ngại những người có lòng tham bất kể lương tri, pháp luật, có sự nóng giận thường trực, có sự si mê ngoan cố, có sự kiêu mạn điên rồ, có sự nghi ngờ điều động tất cả thái độ sống… Những cái đó đạo Phật gọi là phiền não.

Ai cũng biết rằng nếu chúng ta càng ít những phiền não ấy, chúng ta càng an vui: và càng có nhiều phiền não ấy, chúng ta càng mất an vui. Phiền não là cái phá hoại tệ hại nhất, kẻ thù nguy hiểm nhất ở trong ta, phá hoại đời sống an vui của chúng ta.

Phiền não khiến chúng ta không thể làm việc có năng suất, không thể tập trung để đọc sách, để nghe âm nhạc, không thể thưởng thức sự êm ả của một buổi chiều, một cội cây, một gia đình, vui đùa cùng em bé, phiền não khiến cho một tiếng chim kêu cũng bực mình, phiền não làm cho những mối tương quan thân quen thành ra bị nhiễm độc, phiền não che ám những mối tương quan với toàn thể đời sống.

Không bị phiền não sai sử là một giá trị của con người nói chung. Nhưng với đạo Phật, vấn nạn này được đào sâu đến tận gốc rễ và giải quyết dứt điểm. Những phiền não ấy tuy chỉ là những cái không có bản chất, tạm thời, “ký sinh” – như những đám mây tạm thời che mặt trời – nhưng ở mức độ tâm thức của người bình thường, chúng che ám hoàn toàn nguồn tâm đầy ánh sáng của trí tuệ, nước mát của từ bi và cội nguồn an lạc.

Trong quan điểm đạo Phật, một con người càng nhiều phiền não thì được đánh giá thấp, càng ít phiền não được đánh giá cao, bất kể người đó có hoàn cảnh ra sao, bởi vì càng nhiều phiền não người đó càng điên đảo, càng tự làm hại mình, và phiền não sẽ tác động bên ngoài làm khổ những người xung quanh.

Phiền não và an vui tỷ lệ nghịch với nhau. Càng ít phiền não thì càng an vui, càng không hao tán năng lực cho nên càng lành mạnh sống động, càng quan tâm và sẵn sàng làm việc vì lợi ích cho những người khác.

Cho nên một trong những giá trịtiêu chuẩn để đo giá trị con người tiến bộ bao nhiêu là sự nhiều hay it phiền não và cái đối nghịch của nó là ít hay nhiều an vui. Tột đỉnh của điều này là không có phiền não, tức là hoàn toàn an vui, đó là mục đích của đời ngườiđạo Phật gọi là giải thoát.

Tiêu chuẩn trên có thể diễn tả thành ít khổ đau và nhiều hạnh phúc. Khi nói đến phiền não và an vui, chúng ta chú trọng đến mặt tâm hơn, và khi nói đến khổ đau và hạnh phúc chúng ta nói đến cả mặt tâm lẫn thân, nghĩa là toàn bộ cuộc sống vật chất và lẫn tinh thần của con người.

Để có ít khổ đau và nhiều hạnh phúc, chúng ta không làm những hành động xấu về thân và tâm để bị đưa đến những khổ đau về thân và tâm. Thay vào đó, chúng ta làm những hành động tốt về thân và tâm để đưa đến những hạnh phúc về thân và tâm.

Tất cả đêu dựa vào nhân quả, tóm gọn thành: không có điều gì xấu sẽ xảy ra với chúng ta nếu nơi chúng ta không có nhân của cái đó, và điều gì tốt sẽ xảy ra nếu nơi chúng ta có nhân của cái đó. Đây là nền tảng để có một cuộc sống hạnh phúc, không lo sợ, ngược lại tràn đầy niềm tin sống.

Khá nhiều người nghĩ rằng đạo Phật cho “đời là bể khổ”, đạo Phật có vẻ bi quan. Nhưng thật ra, khổ đau chỉ là một nhận xét của đạo Phật về cuộc sống bình thường của chúng ta. Ý nghĩa thực sự và sống còn của đạo Phật là sự tận diệt khổ đau. Khổ đau với đạo Phật là cái xấu cần phải trừ bỏ. Bởi thế giá trị sống của đạo Phật là hãy sống sao cho, bây giờ và mai sau, ít khổ đau và nhiều hạnh phúc.

Chúng ta thấy Đức Phật được xưng là Lưỡng Túc Tôn, đầy đủ hai sự tích tập: phước đứctrí tuệ. Cuộc đời đầy thuận lợi của Đức Phật từ gia đình cho đến đệ tử nói lên sự tích tập phước đức của Ngài. Và sự giải thoát vĩnh viễn khỏi khổ đau nói lên sự tích tập trí tuệ của Ngài.

Cho nên khổ đau và hạnh phúc, cả vật chất lẫn tinh thần, là một tiêu chuẩn để đánh giá một con người. Ít khổ đau và nhiều hạnh phúc là một giá trị sống căn bản cho mỗi cá nhân, không kể người ấy có biết đạo Phật hay không.

Nhưng nếu một người nào cho đó là một giá trị thật sự cho cuộc sống của mình, người đó sẽ thấy rằng đạo Phật bao gồm đầy đủ những phương tiện để mỗi cá nhân có thể thực hiện được tiêu chuẩn đó, và nhờ thế mà thấu hiểu được ý nghĩa của việc có mặt của mình ở trên cuộc đời này.

2. Giá trị sống trong tương quan với người khác: Đem lại nhiều hạnh phúc và ít khổ đau cho những người khác

Thông thường chúng ta vẫn xem người nào sống mà đem lại hạnh phúc cho nhiều người, sống có ích cho nhiều người, là vĩ nhân, là thánh nhân; còn người nào sống mà đem lại khổ đau cho nhiều người, sống mà làm hại nhiều người, là những “tội phạm của nhân loại”.

Ở mức độ nhỏ hẹp của một cuộc sống bình thường, một người sống có tình có lý, có một ít lòng tốt, tình thương, nhẫn nại, khoan dung, khiêm hòa với những người chung quanh, thì khi người đó chết đi, cái nổi bật trong trí nhớ những người thân quen là những giá trị sống, những phẩm tính, tấm lòng của người kia.

Cho nên cuộc sống nào càng đem lại sự tốt đẹp, hạnh phúc cho nhiều người thì cuộc sống đó càng có giá trị, và cuộc sống nào đem lại sự xấu kém, khổ đau cho người khác thì cuộc sống đó càng kém giá trị.

Ở đây chúng ta chú ý đến mối liên hệ biện chứng, hữu cơ giữa việc làm lợi cho người khác, làm cho người khác hạnh phúc và sự hoàn thiện của riêng của cá nhân, hay là mối liên hệ giữa lợi mình và lợi người, nói theo ngôn ngữ Phật giáo.

Thứ nhất, nếu người ta càng ít phiền não bao nhiêu, người ta càng có ích, càng đem lại hạnh phúc cho người khác chừng đó. Nếu một công việc làmhạnh phúc của người khác bắt nguồn từ một động cơ được xem là không phiền não, tiến hành trong một trạng thái được xem là không phiền não thì kết quả phụng sự cho người khác là rất to lớn từ mặt vật chất đến bề sâu tâm thức.

Thiền sư Vạn Hạnh ngày xưa và Mahatma Gandhi là một thí dụ.

Thứ hai, khi làm cho một người hay một số người hạnh phúc, chúng ta liền hạnh phúc, và ngược lại. Khi làm cho người khác tiến bộ, nâng cấp cho người khác, giúp đỡ cho người khác thì tự chúng ta lại càng tiến bộ thêm; được nâng cấp và giúp đỡ thêm. Cho nên một ý của đạo Phật là người đi trên con đường tự hoàn thiện cần cảm ơn, biết ơn người khác. Nếu không có họ, lấy ai để hành bố thí, nhẫn nhục, lấy ai để tích tập công đức, để trau giồi những giá trị sống hay là những phẩm tính cao cả của bản thân mình?

Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình. Như thế, lợi mình lợi người là hai cái không thể tách rời nhau trong một tâm thức tiến bộ, nghĩa là bao la và sâu thẳm, mà đạo Phật gọi là Bồ đề tâm. Bởi thế lợi mình và lợi người là không hai, và là ý nghĩa, hạnh phúc của con người trên mặt đất này.

3. Giá trị sống trong tương quan với thế giới tự nhiên: ít phá hoại, nhiều nuôi dưỡng

Chúng ta thấy trong giới luật đạo Phật, sự không xài phí quá mức tài nguyên thiên nhiên thể hiện rất rõ: giặt y áo không được dùng quá nhiều nước, không làm ô nhiễm nguồn nước (nhổ nước bọt, đổ chất thải…) không chặt cây khi không nhận thấy là rất cần thiết, không đốt lửa thiếu cẩn trọng… Tất cả nói lên sự ít xâm phạm thiên nhiênđể dành cho người khác. Nói đến nước, chúng ta đều biết là một vấn nạn của thế kỷ XXI là loài người bị thiếu nước. Như thế, chúng ta thấy cái nhìn của đạo Phật về thiên nhiên thật sâu xa.

Đạo Phật không chủ trương không can thiệp đến thiên nhiên để thiên nhiên vẫn là hoang sơ, nguyên phác. Nhưng đạo Phật quan niệm thiên nhiên cần được cải tạo, sửa sang để thiên nhiên là một thiên nhiên được nâng cấp, được nhân tính hóa chứ không phải là một thiên nhiên bị hủy hoại vì những phiền não của con người mà trong đó tham lam là chủ yếu.

Trong một ý nghĩa, chủ trương “ít muốn, biết đủ” (thiểu dục tri túc) của đạo Phật là sự tôn trọng thế giới tự nhiên, bao gồm thực vật, sinh vật và cả loài vô cơ, vô tình, đất, nước, lửa, gió, không khí. Tôn trọng thiên nhiên là một phần của sự tôn trọng toàn bộ thế giới, trong đó bao gồm ta, người, và toàn bộ thiên nhiên.

Cho nên ít phá hoại, nhiều nuôi dưỡng, ít đem lại “khổ đau” cho thiên nhiên, đem lại nhiều “hạnh phúc” cho thiên nhiêngiá trị sống của bất kỳ con người nào, vì ai cũng biết thiên nhiên là một phần của thân tâm con người.

Để kết luận, chúng ta thấy những giá trị sống, những đức tính lý tưởng của cuộc đời đều có trong đạo Phật. Nhưng đạo Phật không chỉ nêu lên những giá trị sống, những đức tính lý tưởng để rồi chỉ mơ tưởng và rồi trở thành một lý thuyết không tưởng, một đạo đức học hay nhân sinh quan không tưởng. Với đạo Phật không chỉ có tiêu chuẩn lý tưởng (cảnh) mà còn có phương pháp thực hành (hạnh) để cuối cùng đạt đến kết quả hiện thực (quả). Chính sự thực hành cụ thể làm cho những lý tưởng đó trở thành hiện thực trong đời sống.

Như vậy, những giá trị sống của đạo Phật vẫn là những giá trị sống của cuộc đời bình thường, có điều đạo Phật giúp chúng ta phân biệt rõ ràng đâu là một giá trị sống có “giá trị” hơn, nghĩa là mức độ ảnh hưởng của nó rộng lớn, lâu dài và đem lại những kết quả tốt hơn cho mình và cho người.

Hơn nữa, đạo Phật còn cho chúng ta cách sống những giá trị ấy, những thực hành để làm cho những giá trị sống ấy hiện thực thành chính đời sống của mỗi con người. Đạo Phật vừa giới thiệu, định giá những giá trị, những tiêu chuẩn sống, đồng thời giúp hiện thực hóa những giá trị tiêu chuẩn ấy, như thế, đạo Phật trở thành con đường bao trùm toàn bộ bước đầu cho đến bước cuối của những giá trị sống, cho nên có thể nói rằng đạo Phậtgiá trị sống sâu rộng mà cao tột bao trùm toàn bộ đời sống.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4491)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4535)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7270)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2941)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12163)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3973)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3780)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4169)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3658)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5013)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6624)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3974)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4088)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5307)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3770)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4506)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3909)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4371)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5375)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3827)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3913)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3848)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4792)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4493)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4228)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3807)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4610)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4169)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6061)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4575)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4926)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4136)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4790)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5637)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3595)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4008)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4570)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5248)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3122)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4727)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4513)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4258)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4715)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4473)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4581)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7191)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5175)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4979)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4565)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5585)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5242)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4138)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5982)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4698)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4850)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5457)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5596)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5786)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4971)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant