Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tránh trộn lẫn tự ngã với thực hành

12 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12292)
Tránh trộn lẫn tự ngã với thực hành
TRÁNH TRỘN LẪN TỰ NGÃ VỚI THỰC HÀNH
Tác giả: Alexander Berzin, Berlin, Germany, October 2004
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 12-17/08/2010


1.-SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TỰ NGÃ LÀNH MẠNH VÀ TỰ NGÃ KHÔNG LÀNH MẠNH

Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân – những thời khắc thay đổi [liên tục] của kinh nghiệm. Nói cách khác, những thời điểm của những kinh nghiệm cá nhân của chúng ta đi theo từ thời khắc này đến thời khắc khác theo luật nhân quả hành trạng (nhân như thế nào cho quả như thế nào). Trên căn bản sự tương tục của những thời khắc này, chúng ta có thể định danh “tôi.” "Cái tôi" quy ước của thế gian này thật sự tồn tại và trong dạng thức của "cái tôi" này mà chúng ta có thể nói, “tôi đang ngồi; tôi đang ăn; tôi đang thiền tập.” "Cái tôi" quy ước, tuy thế, chỉ đơn thuần là điều gì đấy có thể được quy cho sự tương tục tinh thần của chúng ta: không có điều gì [cố hữu] có thể tìm thấy về phía "cái tôi" quy ước, bằng năng lực của chính nó, làm cho "cái tôi" tồn tại như như "cái tôi". Một "cái tôi" thật sự tồn tại với điều gì đấy có thể tìm thấy về phía chính nó, thiết lập sự tồn tại của nó, là không thể có. "Cái tôi" thật sự tồn tại có thể tìm thấy hoàn toàn không hiện hữu; đó là "cái tôi" sai lầm, không có thật, "cái tôi" bị bác bỏ.

Phương Tây, trái lại, nói về cá tính (tự ngã) lành mạnh và cá tính không lành mạnh. Cá tính lành mạnhcảm giác của một "cái tôi" căn cứ trên "cái tôi" quy ước; trong khi cá tính (tự ngã) không lành mạnhý nghĩa của cái “tôi’ sai lầm, không có thật. Cá tính không lành mạnh có thể hoặc là một thứ phô trương hay không phô trương. Cá tính không phô trương căn cứ trên sự tin tưởng "cái tôi" thật sự tồn tại có thể tìm thấy; trong khi cá tính phô trương được căn cứ hoặc là trên sự tin tưởng rằng ngay cả "cái tôi" quy ướckhông tồn tại, hay trên ý nghĩa được thiết lập rất yếu đuối của "cái tôi" quy ước.

[See: The Gelug Kagyu Tradition of Mahamudra, Part I, Chapter 5.]

Đối với sự thực tập Phật Pháp lành mạnh, chúng ta cần một cá tính lành mạnh, vì thể chúng ta chịu trách nhiệm cho những gì chúng ta trãi qua trong đời sống. Trên căn bản của việc lãnh lấy trách nhiệm này, chúng ta hình thành một phương hướng an toàn trong đời sống của chúng ta (quy y Phật, Pháp, Tăng), hướng đến sự giải thoát và/hay sự giác ngộ, và đi theo một phương thức thực tập đối với những mục tiêu này căn cứ trên niềm tin vững chắc trong Phật tính của chúng ta và trên luật nhân quả nghiệp báo. Tuy thế, cho đến khi chúng ta được giải thoát như những vị a la hán, chúng ta vẫn sẽ phải bám víu cho một sự tồn tại thật sự có thể tìm thấy của một "cái tôi". Do bởi điều đó, sự thực tập Phật Pháp của chúng ta bị trộn lẫn với một cá tính không lành mạnh một cách không thể tránh khỏi. Nếu chúng ta tỉnh thức về những cung cách mà trong ấy điều này xãy ra, chúng ta có thể cố gắng giảm thiểu tối đa sự tổn hại bởi sự thiền tập trên điều đó và sự áp dụng những phương pháp tạm thời. Tuy thế, công thức căn bản là sự thấu hiểu về tính không của tự ngã (cá tính).

2.- NHỮNG RẮC RỐI SINH KHỞI TỪ CÁ TÍNH (TỰ NGÃ) PHÔ TRƯƠNG QUA VIỆC ĐỒNG NHẤT VỚI SỰ TỒN TẠI THỰC SỰ CỦA "CÁI TÔI"

Một số người trở nên liên hệ với Phật Pháp do bởi một số lý do nghiệp lực mà điều ấy làm cho họ tò mò và thích thú trong Giáo Pháp, một khi sự thích thú ấy được thúc đẩy bởi một hoàn cảnh nào đấy. Nhưng, một số tiếp cận Phật Pháp vì những lý do không ổn định căn cứ trên cá tính (tự ngã) phô trương. Có ba hình thức thông thường của triệu chứng này. Suy nghĩ về chính mình như một "cái tôi" thật sự tồn tại có thể tìm thấy, chúng ta có thể hướng về Phật Pháp:

  • Để được chấp nhận bởi một nhóm thân hữu nào đấy, bởi vì Phật giáophong trào và một số tài tử phim ảnh và âm nhạc là những thành viên của Phật Pháp;
  • Để tìm một sự trị liệu mầu nhiệm cho một vấn để cảm xúcthân thể mà không có giải pháp nào khác để hỗ trợ; hay
  • Để thỏa mãn cho sự hấp dẫn trong những thứ lạ lùng.

Một cách tổng quát, để tránh những hiểm họa có thể đến từ việc trở nên liên hệ với Phật Pháp cho bất cứ lý do nào trên đây, chúng ta cần thể nghiệm và điều chỉnh động cơ của chúng taTuy thế, có những bước đặc thù tạm thời mà chúng ta có thể xem như sự vượt thắng những “chuyến du hành-tự ngã” thông thường bị phối hợp với một trong ba hình thức của tự ngã phô trương.

a- Muốn Là Một Bộ Phận của Đám Đông

Với một ý nghĩa phô trương của "cái tôi", chúng ta có thể cảm thấy tự đắc rằng chúng ta là một bộ phận của những kẻ “giàu sang hay nổi tiếng hay tinh túy”. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần hoan hỉ rằng chúng ta đã tìm thấy Phật Pháp, hơn là cảm thấy kiêu hãnh về điều ấy. Chúng ta có thể thiền quán về từ bi cho những người khác vẫn chưa tìm ra phương hướng. Xa hơn, so sánh với những người khác những người đã tiến xa trên con đường tu tập, chúng ta cần nhận thấy rằng chúng ta chỉ là những thiếu nhi trong Phật Pháp. Vì thế không có gì căn cứ cho một cảm giác kiêu căng.

b- Muốn Tìm Một Phép Lạ Trị Liệu

Chán nản để tìm một sự trị liệu nhiệm mầu cho khổ đau của chúng ta thường đưa đến một cảm giác phô trương của sự tự quan trọng. Chúng ta có thể trở nên quá bị bận tâm với chính mình cũng như những rắc rốichúng ta cố gắng quản lý thời gian của vị thầy hay của lớp học với những câu hỏi liên tục. Chúng ta muốn sự chú ý liên tục. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần nghĩ về sự bình đẳng của chính mình và những người khác. Không ai muốn khổ đau và mọi người muốn được chữa trị.

Với một cảm giác phô trương của cái “tôi,” chúng ta cũng có thể nghĩ rằng chúng ta giống như Milarepas – những hành giả quá cấp tiến (chín háp) cho rằng chúng ta sẽ đạt đến giác ngộ một cách chắc chắn trong chỉ một vài năm. Hậu quảchúng ta đòi hỏi một sự chú ý đặc biệt từ những vị thầy của chúng ta. Để chạy chữa cho sự phô trương tự ngã này, chúng ta cần đọc tiểu sử của những đại đạo sư Phật giáonghiên cứu những thiền giả thật sự giống như thế nào.

Cũng thế, bị tự bận tâm lo lắng, chúng ta có thể quá liều lĩnh, rằng chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì mà vị thầy nói. Chúng tathái độ: “Chỉ nói cho con những từ ngữ mầu nhiệm để trì tụng hay thực hành pháp thuật, và con sẽ làm điều ấy.” Với một tinh thần như thế, chúng ta có thể lạy phủ phục 100.000 lần hay trì tụng mật ngôn Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva ), nhưng khi không có phép mầu xảy ra như một kết quả, chúng ta rơi xuống một sự chán chường cùng tận. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần nghĩ về một số lượng lớn của những nguyên nhân như thế nào phải theo đuổi để mang đến một kết quả.

Chúng ta cũng chạy đôn chạy đáo đến mọi lễ quán đảnh khai tâm được tổ chức, bởi vì biểu hiện quan tâm thái quá về một "cái tôi" dường như tồn tại thật sự, chúng ta không muốn thiếu vắng bất cứ điều gì. Chúng ta chạy vội vả điên cuồng như vậy do bởi muốn được nhóm mình muốn tham dự thừa nhận, hay do bởi một sự cuồng nhiệt với những điều kỳ lạ. Nhưng bất cứ lý do không chính đáng nào có thể, chúng ta cần nhớ rằng một lễ quán đảnh vào trong một hệ thống bổn tôn là chỉ nhằm cho những ai thật sự nguyện ước để thực hành về Đức Phật biểu tượng đặc thù ấy và có thời gian để thực hành. Chúng ta cần thực tế về thời gianchúng ta có cho sự thực tập hằng ngày. Sự khuyên bảo tương tự áp dụng đến những người chạy hết thầy này đến thầy kia và rồi bối rối mờ mịt, hay những người chạy đi thọ giới - phát nguyện mà không quan tâm đến việc mình có thể thọ trì được hay không.

c- Sự Quyến Rũ của Những Điều Lạ Lùng

Với một sự quyến rũ đối với những điều lạ lùng, chúng ta có thể tích lũy nhiều tối đa những pháp khí, tranh thờ thangka, và v.v… như chúng ta có thể và rồi thì thu xếp một phòng thiền tập trong nhà của chúng ta với sự trang trí như Hollywood hay Disneyland. Sau đó chúng ta đặt thời khóa biểu hằng ngày về việc thực hành cúng dường puja với chày kim cương, linh, trống, đèn bơ và hương. Để vượt thắng hình thức tự ngã phô trương này, chúng ta cần nhớ rằng mục tiêu côt yếu của sự thực hành Phật Pháp là để chuyển hóa tâm thức, chứ không phải sắp đặt cho một màn trình diễn lạ mắt.

3.- NHỮNG RẮC RỐI SINH KHỞI TỪ MỘT CÁ TÍNH TIỀM ẨN (TỰ NGÃ KHÔNG PHÔ TRƯƠNG)

Chúng ta có thể đến với Phật Pháp do bởi một tự ngã tiềm ẩn, vấn đề ấy đến từ việc không có một cảm giác vững vàng với "cái tôi" quy ước. Với một cảm giác yếu đuối với "cái tôi", chúng ta có thể bị đẩy đến những giáo phái Phật giáo bởi một thủ lĩnh hấp dẫn, người hứa hẹn với chúng ta rằng:

Dòng truyền thừa mà họ dạy và người khai sáng là nhất hạng, và bất cứ hình thức tâm linh nào khác là không tốt.

- Họ là những vị thầy nhất hạng, và tất cả những người khác là không tốt.

Chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ nếu chúng ta buông bỏ sự yếu đuối, suy nghĩ sai lầm của chúng tahoàn toàn vâng lời họ như vị thầy của chúng ta và sự diễn dịch của họ về Phật Pháp là không thể sai lầm được, và

- Nếu chúng ta đi theo một vị hộ pháp tâm linh mạnh mẽ, vị siêu phàm này sẽ đập nát tất cả những kẻ thù của giáo phái họ, vì tất cả những truyền thống những vị thấy khác là kẻ thù.

Những vị thầy như thế đòi hỏi một sự trung thành hoàn toànsử dụng yếu tố sợ hãi của địa ngục, là những thứ mà chúng ta sẽ rơi vào nếu không vâng lời. Những học nhân bị đẩy vào những thứ này thường có cá tính yếu đuối, không có sự vững vàng, và bị hấp dẫn bởi những hứa hẹn về sự đạt đến sức mạnh vô sốsức mạnh từ vị thầy, giáo huấn, dòng truyền thừa và vị khai sáng của giáo phái ấy, và vị hộ pháp. Những học nhân bị kích thích một định hình cá tính bởi toàn nhóm.

Triệu chứng này đưa đến cuồng tín tôn giáo, căn cứ trên sự sợ hãi, mong ước để tốt chứ không xấu, mong ước được hài lòng và để được chấp nhận cùng được vị thầy yêu mến cũng như nhóm ấy, và một cảm giác tội lỗi nếu chúng ta không thực hành một cách toàn hảo. Tất cả những điều này vô nghĩa, hay là một ý nghĩa rất yếu đuối, của một "cái tôi" cá nhân quy ước của tục đế, và một sự bám víu đến một “cái nhóm- tôi” sai lầm. Trong một ý nghĩa, chúng ta có thể gọi triệu chứng này là “phát xít tâm linh.” Nó có thể xảy ra cho dù vị thầy có lừa bịp hay không, và cho dù chúng taliên hệ trong một giáo phái Đạo Phật hay không.

Có nhiều loại triệu chứng khác nhau cùng loại với triệu chứng này. Thí dụ, chúng ta cứng nhắc và không uyển chuyển trong sự thực tập của chúng ta. Hay chúng ta thiết lập thời khóa mỗi ngày quá dài, vì thế nó trở thành một gánh nặng và không có hỉ lạc trong ấy. Chúng ta cần nhớ rằng một trong những điều hỗ trợ cho nhẫn nại tinh tấn hoan hỉ được biết khi để cho chúng ta thư thái và giải lao – và không cảm thấy tội lỗi về việc làm như thế. Nếu chúng ta áp đặt quá nghiêm ngặt, chúng ta chỉ được điều mà người Tây Tạng gọi là “lao phổi” (một năng lượng nản chí trong cơ thể của chúng ta) và nó là thối bộ. Một triệu chứng khác là chúng ta cố chấp những cung cách khác nhau hay những loại thực tập khác nhau. Để đáp ứng với điều này, chúng ta cần nhận ra rằng, với phương tiện thiện xảo, Đức Phật đã dạy nhiều pháp môn khác nhau để thích hợp với những người khác nhau. Nếu chúng ta loại ra và xem thường chúng, thế thì chúng ta đang phủ nhận Giáo Pháp.

4.- NHỮNG HÌNH THỨC DỊU DÀNG CỦA VIỆC TRỘN LẪN CÁ TÍNH VỚI GIÁO PHÁP

Chúng tathể không quá bị quấy rầy một cách nghiêm trọng với bất cứ những triệu chứng được đề cập bên trên, nhưng nhiều người trong chúng ta có thể vẫn có những hình thức nhẹ nhàng của việc trộn lẫn cá tính với sự thực hành Phật Pháp. Thí dụ, chúng ta có thể tiếp cận “sự tích lũy công đức” giống như chúng ta đang cố gắng để thắng một cuộc thi cử và trong ấy chúng ta đang thi đua với những hành giả khác. Hay chúng ta có thể hành động để ‘tích lũy công đức” nhằm để “mua” con đường của chúng ta đến giải thoátgiác ngộ, hay để để dành cho mùa đông, như những con sóc tích trử quả hạch, để bảo vệ chúng ta.

Trên một phương diện khác, chúng ta có thể tránh không bị quá liên hệ với Giáo Pháp, bởi vì chúng ta sợ phải bỏ đi một số thói quen thường ngày của chúng ta – cho dù chúng là những thói quen cá tính lành mạnh hay không lành mạnh. Do thế, chúng ta có thể sợ phải mãi mãi tiếp nhận những thệ nguyện hay những lễ quán đảnh. Về điều này chúng ta cần phát triển sự tỉnh thức sắc bén để phân biệt những hành vi và sự thích thú nào của chúng talành mạnh và hữu ích, và những thứ nào là không lành mạnhtổn hại.

Cũng thế, chúng ta có thể có những chướng ngại về những sự tiếp cận trí thức, xúc cảm, hay sùng mộ đến Phật Pháp. Điều này sinh khởi khi chúng ta nhận ra chính mình hoàn toàn với một hay hơn trong những loại tiếp cận này, hay chúng ta nhận ra mình như ai đấy không thể có một hay hơn những điều này. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần nhận ra những lợi ích của mỗi một trong ba loại tiếp cận và nỗ lực để trau dồi tối đa sự cân bằng thực hành Phật Pháp mà mình có thể làm.

Những rắc rối khác của chúng ta có thể sinh khởi bởi vì chúng ta không đặt để Phật Pháp ưu tiên đúng mức trong đời sống chúng ta. Do bởi điều ấy, chúng ta không thực hành hằng ngày hay không tiếp nhận sự thực tập hằng ngàyquyết tâm một cách nghiêm chỉnh. Chúng ta bỏ thực tập khi chúng ta cảm thấy không thích làm điều ấy, và chúng ta vắng mặt trong những buổi học khi chúng ta cảm thấy không hứng thú, hay có một lễ mừng ngày sinh hay một bộ phim hay hoặc một buổi hòa nhạc trùng hợp thời gian. Điều này có thể bởi vì chúng ta cảm thấy rằng để thực hành hay dự học Phật Pháp là đang phải từ bỏ một số bộ phận quan trọng của “chính chúng ta”. Với điều này, chúng ta cần phân biệt giữa những gì quan trọng trong đời sống và những gì không quá quan trọng, và giữa việc khi chúng ta thật sự không thể thiền tập hay đi đến lớp học Phật Pháp, và khi chúng ta chỉ lãng tránh do bởi lười biếng hay dính mắc. Chúng ta cần tái khẳng định đời sống quý giá của con người, và nghĩ về cái chết và vô thường.

Nếu chúng ta áp dụng những phương pháp khác nhau này, chúng ta có thể tránh một số vấn đề mà chúng đến từ sự trộn lẫn cá tính tự ngã với sự thực tập Phật Pháp của chúng ta.

Ẩn Tâm Lộ ngày 07/06/2011

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/approaching_study_meditation/avoiding_mixing_with_dharma_practic.html

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4980)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4366)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4656)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4701)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5854)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3294)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5258)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2922)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4132)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5281)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4262)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3318)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6358)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5329)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4620)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6232)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6104)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3888)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6032)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4639)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4785)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3384)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6273)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4941)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3540)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3470)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5666)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4234)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5979)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5235)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3669)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3753)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3704)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3529)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5361)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4009)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4358)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5818)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3121)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3064)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3855)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4850)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3569)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3037)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4569)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4717)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3431)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3986)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4723)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3563)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3602)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5131)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4154)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3288)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2994)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3034)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3104)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3100)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3471)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3998)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant