Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hành trình sơ chuyển Pháp luân của đức Phật

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 15381)
Hành trình sơ chuyển Pháp luân của đức Phật

Cuộc hành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôi thúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau.

Xã hội Ấn Độ là một trong những quốc gia sản sinh ra nhiều nhân tài, nhiều triết gia, và cũng là nơi rất phức tạp trên các lãnh vực kinh tế chính trị, văn hóa, ngôn ngữ, triết lý và tôn giáo… Chính vì sự đa dạng như vậy, nên khổ đau và hạnh phúc sẽ được đề cập đến nhiều hơn. Khổ đau như một sự thật hiển nhiên của cuộc đời mà bất cứ một thời đại nào, một quốc gia nào, một con người nào không biết và không cảm nhận, khổ đau đó không chỉ đúng với ngày xưa mà còn đúng cả hôm nay và mai sau.

Cũng ở nơi đây, cách đây trên 2500 năm, xã hội hình thành nên những giáo phái, những học thuyết với những chủ trương khác nhau để lý giải về hai nhu cầu bức thiết, không định hình được đâu là chân là giả, khiến khổ đau vẫn hoàn là khổ đau và nó mãi vây lấy kiếp người chưa một lúc nào ngừng nghỉ. Chính trong thời điểm đó, trong bối cảnh tàn khốc đó, mọi người ai cũng mong chờ có một bậc vĩ nhân xuất hiện để giải thoát họ ra khỏi sự nô lệ của kiếp người. Đức Phật đã ứng hiện. Cả cuộc đời của Ngài luôn đi sâu vào quần chúng, tìm hiểu nỗi đau của chúng sanh rồi tìm ra cho mình một hướng đi đúng đắn, quyết định bỏ lại sau lưng tất cả mọi cám dỗ của dục lạc trần gian, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan. Ra đi với nhiều thao thức mong sao chính bản thân mình tìm ra một con đường bất tử cứu nhân độ thế. Suốt cuộc hành trình ra đi trong tịch tĩnh, cuối cùng Ngài đã tìm ra được đạo lộ của cánh cửa vô sanh, cánh cửa mà từ đây chư thiênloài người sẽ không còn bơ vơ lạc lõng hay sống trong sự lo sợ của sanh già bệnh chết, thay vào đó là sự sống trong an lànhgiải thoát. Ngài đã giác ngộ sau quá trình tư duy bằng tuệ quán, suy nghiệm và không ngừng nỗ lực tu tập. Chính sự quyết định này đã mở con mắt tuệ cho chúng sanh, đập tan đi mọi thành kiến mê lầm chấp ngã đã hằn sâu trong vô lượng kiếp, khẳng định lại giá trị hạnh phúc, nhân bản của một con người từng đánh mất đi giá trị có trong tầm tay của mình.

Sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, đức Thế Tôn băn khoăn: rằng nên hay không nên vận chuyển bánh xe pháp, hay là sẽ nhập Niết-bàn, bởi vì Giáo pháp Ngài vừa chứng ngộ không phải là một giáo pháp bình thườnggiáo lý vừa chứng ngộ đó là một giáo pháp thật thâm áo, khó thấy, khó hiểu, dựa trên thực nghiệm, tuyệt diệu, không thể do lý luận có thể giải thích, tế nhị, chỉ người trí mới thấu hiểu được. Một giáo lý chỉ có người trí mới thấu hiểu, chỉ có những con người ly trần diệt nhiễm mới liễu ngộ thì thử hỏi ở thế gian được bao nhiêu người. Điều này khiến cho Thế Tôn, bậc Vô thượng Chánh đẳng giác, đã khởi lên tâm niệm muốn nhập Niết- bàn. Trong các kinh điển Pàli, chúng ta thấy có ghi lại tâm trạng này dưới hình thức một cuộc đối thoại với Phạm thiên Sahampati. Rõ ràng, đức Phật muốn dấy lên sự xung đột giữa các tư tưởng nội tâm của Ngài trở thành dễ hiểu nên đã sử dụng hình ảnh vị Phạm thiên lừng danh xuất hiện để trình bày những tư tưởng tranh luận cuối cùng trước khi quyết định có nên vận chuyển bánh xe pháp hay không. Chính sự vận động đấu tranh tư tưởng cuối cùng này đã mở ra một con đường thênh thang cho chúng sanh sau này nương nhờ, khai mở con đường bất tử đang đợi chờ ở phía trước. Đức Phật bảo: “Thế giới này thích thú dục lạc, song giáo pháp của ta hướng đến viễn ly, ly tham, ái diệt. Giả sử ta thuyết giảng giáo pháp này, tức phải đi ngược dòng, và người đời không hiểu được ta, điều ấy sẽ gây khó nhọc lòng cho ta”. Vị Phạm thiên trả lời: “Thế giới sẽ hủy diệt nếu đấng Toàn giác không quyết định thuyết pháp. Do vậy, cầu xin đức Thế Tôn hãy thuyết pháp. Có những người ít nhiễm bụi trong mắt, nếu không được nghe Pháp, chúng sẽ sa đọa. Song nếu chúng nghe Pháp, chúng sẽ đạt giải thoát”. Qua lời đối thoại ngược trở lại đó, vị Phạm thiên đã làm sanh khởi lòng từ bi và tâm nguyện độ sanh nơi đức Phật. Ngài nhận ra được mục đích ra đời của Ngài, sự tu tập của Ngài trải dài từ vô lượng kiếp đến nay không phải chỉ tu cho riêng mình, cho cái thân thể nằm trong một trượng sáu này của mình mà sự ra đời đó vì an lạc cho chư thiên, vì lợi íchhạnh phúc cho chư thiênloài người. Giữa một xã hội rối ren, rối ren như một đống tơ vò, bao đau khổ triền miên quấn chặt trải trùm trên tâm tư kiếp người không thể nào vượt khỏi, chưa có một hình thái nào để định hướng, dẫn dắt chúng sanh đoạn trừ hay dứt khoát như vậy, thì ngay nơi đó, ngay chính trong sự khổ đau cùng cực đó, sự hiện hữu của Ngài là một khởi điểm của ánh sáng chân lý, ánh sáng giải thoát giác ngộ, mở ra một chân trời thoáng đãng, thanh thản, nhẹ nhàng, khai triển hiển bày một thông điệp hòa bình nhân bản, tình thươngtrí tuệ. Sự hiện hữu của Ngài đã rống lên tiếng rống sư tử, cảnh tỉnh cho những ai đang sống trong dục vọng ý thức được rằng, mọi huyễn tướng của ràng buộc, mọi bóng tối của vô minh đang hiện bày từ đây sẽ đi lụi dần vào bóng đêm và sẽ chuyển hóa trong ánh sáng nhiệm mầu. Vì thế, Ngài đã tuyên dương Pháp thoại: “Cánh cửa bất tử sẽ rộng mở cho những ai muốn nghe pháp”. Ngài đồng ý với lời thỉnh cầu của Phạm thiên và sẽ lên đường thuyết pháp. Phạm thiên hân hoan vui mừng đi nhiễu xung quanh ba vòng rồi biến mất.

Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng, có người cấu nhiễm, có người thanh tịnh, cũng như Hoa sen mọc từ trong bùn, có cành hoa vươn lên khỏi mặt bùn, có cành hoa đang nằm trong mặt nước không vươn lên mặt bùn, có cành sen nằm sâu dưới đáy. Căn cơ của chúng sanh cũng như những cành sen này, có người không ô nhiễm, có người ít bụi nhiễm, có người bụi nhiễm rất nhiều, có cao có thấp khác nhau. Qua hình ảnh hoa sen đó, Ngài khởi ý niệm nên đi đến giáo hóa cho người nào. Ngài liền nghĩ ngay đến những vị từng là đạo sư của Ngài: Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Khi biết rằng cả hai đều từ trần, Ngài liền nghĩ ngay đến năm vị đồng tu khổ hạnh với Ngài thuở trước hiện đang trú tại vườn Lộc Uyển gần Ba-la-nại (Benares). Ngài thầm nghĩ, nếu năm vị ấy khi nghe được những lời dạy này sẽ có thể thấu hiểu được một cách dễ dàng.

Trong niềm hân hoan đó, Ngài liền rời cội Bồ-đề đi đến thành Ba-la-nại. Sự quyết định giảng pháp này đã đánh dấu con đường chuyển giao giữa mê và ngộ, giữa khổ đau và hạnh phúc. Như vậy từ đây, chánh pháp được bậc giác ngộ chuyển khai sau khi đã hành trì tu tập, thế gian từ đây không còn sống trong ngục tù, không bị ràng buộc bởi bọn ma vương cám dỗ, tài, sắc, danh, thực, thùy, không sống trong vòng kiềm tỏa câu thúc của khát ái, lệ thuộc vào khổ đau. Ánh sáng giác ngộ sẽ phá tan màn vô minh u tối đã bao trùm từ vô lượng kiếp.

Sau đó, Ngài khởi hành đi đến Benares, trên đường đi Ngài gặp một du sĩ ngoại đạo theo trường phái cực đoan. Vị này thấy trên khuôn mặt Ngài lộ vẻ hân hoan, thanh thoát nên đã chú ý và hỏi bậc Đạo sư của Ngài là ai, và giáo Pháp mà Ngài vừa chứng ngộ được học như thế nào? Đức Phật đầy lòng tự tin tuyên bố Ngài đã được giải thoát nhờ ái diệt, hữu diệt, thủ diệt. Ngài là vị thắng giả trên chiến trường. Vì vậy, Ngài không có Đạo sư, mà chính Ngài là bậc Đạo sư. Nghe điều này, Upaka tuy cảm phục nhưng vội lắc đầu và rẽ vào con đường khác. Vậy tại sao đức Phật lại lạc quan như thế, dám tuyên bố với vẻ đầy tự tin như vậy, mới nhìn vào ai cũng có thể dễ hiểu lầm, nhưng thực tế đó mới là điều mà chúng ta cần phải suy nghĩ. Đối với một bậc đã giải thoát khỏi ái nhiễm, đã thoát ly mọi triền phược, thì không còn e ngại khuất phục hay sợ hãi trước một thế lực nào, vì người này đã làm chủ được tâm mình, làm chủ được tư tưởng của mình thì còn ai là người có thể điều khiển được tâm tư an tịnh đó. Một bậc giác ngộ tượng trưng cho một hạng người độc nhất, trên thực tế tuy có hình dáng bề ngoài như mọi người, vẫn chịu biến hoại về thể chất, nhưng vị ấy không còn bị chi phối trong vòng sanh tử luân hồi, đã thực sự thoát ly mọi ái nhiễm. Hình tượng oai nghi này đã đập mạnh vào trong tiềm thức của năm anh em Kiều-trần-như, phá vỡ những thành kiến cống cao ngã mạnniềm tin không tốt về con đường mà Ngài đã chọn trước đây. Năm vị này đã đến cầm lấy những y bát, soạn chỗ ngồi, lấy nước rửa chân và xưng gọi Ngài là bậc Hiền giả như trước đây đã từng xưng gọi. Đức Thế Tôn không chấp nhận điều này và tuyên bố: “Này các ông, đừng gọi Như LaiHiền giả. Này các ông, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác”.

Lời tuyên bố ấy đã mở đầu một pháp thoại, hé lộ con đường bất tử. Con đường khước từ thái độ cực đoan tham đắm vào cuộc sống sung túc để hướng tâm đến việc tìm ra chân lý. Chân lý chỉ khai mở khi tâm hồn con người biết quay về, biết nhìn lại chính mình, cùng tu tập và gọt giũa tất cả những cấu uế đã định hình trong tâm từ xưa đến nay. Chân lý đó được Ngài khai mở trong thời điểm thích hợp, làm sáng tỏ thêm mọi việc thông qua bài pháp thoại đầu tiên, khởi đầu sự nghiệp hoằng pháp của Ngài mà đời sau gọi đó là thời pháp “sơ chuyển Pháp luân”. Bài pháp này được đức Thế Tôn trình bày trên phương diện, bác bỏ hai lối sống cực đoan đó là con đường khổ hạnh ép xáccon đường hưởng thọ dục lạc, rồi Ngài khuyến tấn hành giả hãy thực tập theo con đường Trung đạo, đồng thời Ngài trình bày về hệ thống bốn chân lý, đó là một giáo lý căn bản, hàm tàng những yếu nghĩa xuyên suốt về bản chất của cuộc đời hạnh phúc hay khổ đau, chứa đựng sự tinh vi am tường một cách rốt ráo:

“Có hai cực đoan, này các Tỳ-kheo, mà người xuất gia không nên hành trì. Đó là hai lối sống cực đoan? Những gì là hai. Một là đắm mình vào dục lạc, thấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh, không lợi ích. Hai là chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây đau khổ cho thân tâm, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không có lợi ích. Này các Tỳ-kheo, Như Lai đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra con đường Trung đạo, con đường này chính là con đường khiến cho ta thấy và biết, con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”

Sau khi tuyên bố hai lối sống cực đoan đem lại tai hại, đức Thế Tôn thuyết giảng con đường Trung đạo thông qua bốn hành tướng chân lý nhiệm mầu:

“Này các Tỳ-kheo, đây là thánh đế về khổ: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ; gần gũi những gì ta không thích là khổ, cầu không được là khổ, xa lìa những gì ta thích là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ.

Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về nguyên nhân đưa đến đau khổ. Đó chính là khát ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm kiếm lạc thú chỗ này chỗ kia, đó là dục ái, hữu áivô hữu ái.

Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về Khổ diệt, chính là sự đoạn trừ, diệt tận hoàn toàn khát ái đó, sự quăng bỏ nó, chấm dứt nó, xả ly nó, không chấp thủ nó.

Này các Tỳ-kheo, đây là thánh đế về con đường đưa đến khổ diệt. Đó là thánh đạo tám ngành, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định”.

Năm Tôn giả chăm chú lắng nghe lời Ngài dạy. Chẳng bao lâu, năm Tôn giả Kiều-trần-như đoạn tận mọi ái nhiễm, chứng đắc các Thánh quả, trở thành các vị đệ tử đầu tiên trong giáo đoàn của đức Phật. Sau bài pháp đầu tiên, đức Phật tiếp tục giảng bài kinh Vô Ngã tướng, phủ nhận sự hiện hữu của tự ngã. Đây là giáo lý mang một ý nghĩa hết sức thiết thực, chỉ cho con người thấy rõ sự hiện hữu của mình trong cuộc thế nhân sinh là một tập hợp của năm uẩn. Chính điều này đi ngược lại ý tưởng đương thời, gây kinh ngạc trong hệ thống các giáo lý thần linh, đánh ngã mọi học thuyết chủ trương tự ngã là trường cửu hay đoạn diệt lúc bấy giờ.

Qua bài kinh Vô ngã, đức Phật đã mở ra một cái nhìn mới về con người, về cuộc đời. Con người không phải là một thực thể bất biến mà nó là duyên sinh. Con người chỉ là một tập hợp của năm thành tố, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nên không có một cái ngã thực hữu, thường hằng. Con người là sự kết hợp trọn vẹn hai mặt vận hành đó là thân thể vật lý và cấu trúc tâm lý mà không có một linh hồn-thực thể hằng biến như chủ trương của các học phái ngoại đạo lúc ấy. Mặt khác, con người sở dĩ đau khổ là do con người không hiểu rõ được bản chất của đau khổ, không hiểu rõ nguồn gốc đưa đến đau khổ. Đó là không thấy rõ sự biến chuyển, hoại diệt của năm uẩn; không thỏa mãn trước sự thay đổi của những tâm lý vọng cầu tham lam đắm nhiễm vào trong khoái lạc nhục dục lục trần, chấp chặt cho rằng cái thân năm uẩn này là thực có, là thường hằng, một khi nó mất đi thì tâm niệm đau khổ hiện ra.

Khi năm vị Tỳ-kheo nghe xong bài pháp thoại này, tâm của các vị ấy hoàn toàn ly nhiễm, thoát khỏi mọi lậu hoặc, và ngay lúc đó trở thành A-la-hán. Tri kiến hoàn toàn thanh tịnh, mênh mông sâu thẳm và hiểu các pháp một cách rốt ráo.

Qua bài pháp đầu tiên và bài pháp thoại thứ hai, chúng ta thấy sự thành công của đức Phật ngay buổi thuyết giáo đầu tiên. Ngài đi vào lòng quần chúng, đi vào tâm niệm đệ tử với việc phá vỡ tất cả khúc mắc của họ và trình bày lại những sở chứng của mình, chia sẻ cho mọi người cùng hiểu, cùng nắm bắt, cùng thực hành, chứ không phải là những lời dạy mang tính mơ hồ viễn vông. Giáo lý giác ngộ từ đó được vận hành soi sáng trên thế gian, hướng dẫn con người đi những bước đi an tịnh, chắc chắn, hỷ lạc, không ưu tư sầu muộn, đưa đến giải thoát cho bất cứ ai trong khi thâm nhập, tu tập, hành trì giáo lý với tuệ quán thấy được sự thật của khổ đau và nguồn gốc của khổ đau, rồi hướng tâm tới tìm cầu con đường thoát khỏi khổ đau và thực hành phương pháp thoát ly khổ đau. Cuộc hành trình ấy đã thể hiện hai phương diện khổ đau mà thế gian đang phải gánh chịu, và đằng khác là sự thoát ly khổ đau của các bậc Thánh sau khi hành trì Bát thánh đạo, thoát ly hai lối sống cực đoan. Điều này có thể hiểu rằng, bài pháp đầu tiên này mang một ý nghĩa hết sức thiết thực cho kiếp sống nhân sinh, đã mở ra một thông điệp nhân bản cho con người, định hướng cho con người thấy rõ khổ đau và hạnh phúc nằm trong tầm tay của mình, trong cuộc sống hiện hữu của mình chứ không nằm ở đâu xa xôi như thiên đường hay cảnh giới ảo tưởng nào đó. Chỉ khi nào con người biết dừng lại, với tuệ quán nhìn thấy rõ bản chất của nó, biết quay trở lại với bản tâm của mình, thấy rõ thực tướng của năm uẩn tạo nên khổ đau, nguyên nhân khổ đau, khổ đau biến mất và con đường đưa đến đoạn diệt khổ đau thì con người mới đi được những bước đi thảnh thơi, tự tại trên mãnh đất tâm an lạc giải thoát. Bài Pháp đầu tiên và bài pháp thứ hai đã mở một lối đi cho những ai đang còn đắm chìm trong ngục tối vô minh, đang bị ràng buộc trong lệ tình dục nhiễm, hãy ý thức để quay về. Giáo pháp của đạo Phật từ nay sẽ rộng mở cho những ai biết quay đầu phản tỉnh, thiết tha mong cầu thoát khổ để được an vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30357)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30625)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20973)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20171)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19397)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24356)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30615)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15657)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27748)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19742)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15549)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23199)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23523)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17487)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15661)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21837)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37943)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22072)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23201)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21302)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28387)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32498)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25140)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34643)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22894)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27652)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31261)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13580)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25115)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27766)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22053)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20705)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22187)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27074)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24091)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21859)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14689)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23104)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23974)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21047)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14174)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19905)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22473)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14045)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 27990)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22776)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28163)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10968)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28467)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31528)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26141)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14893)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28006)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7384)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25318)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20681)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21099)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12205)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11883)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12779)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant