Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự thân & tha nhân

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12520)
Tự thân & tha nhân

Tự thân & tha nhân 

HT. Thích Thiên ÂnQuảng Trí dịch

Sự thể hiện đích thực về đời sống của người Phật tử không phải là ngôn ngữ, kiến thức mà là hành động. Tọa thiền là quan trọng; giữ tâm điềm tĩnh, lắng dịu và nghiêm túc trong quá trình hành thiền là cần thiết, nhưng đấy không phải là nhiệm vụ khó khăn nhất. Nhiệm vụ khó khăn nhất ấy là đem tâm nghiêm túc ấy vào trong đời sống thường nhật.


Trong Đại thừa Phật giáo, vị Bồ tát được ví như hoa sen, mọc lên từ bùn mà không nhiễm mùi bùn, vẫn nở hoa tươi đẹp và tinh khiết. Vị Bồ tát sống trong đời mà không bị nhiễm bụi trần khi vị ấy cứu giúp mọi chúng sanh. Một thiền sinh phải cố gắng làm sao để giống như vị Bồ tát. Thiền sinh có thể sống đời sống của một con người bình thường, nhưng luôn luôn kiểm soát được tâm và luôn tràn đầy trí tuệtừ bi đối với mọi loài chúng sanh

Để đạt được tâm Bồ tát, bước quan trọng nhất là phải có sự tỉnh giác thực sự về bản thân và về mối quan hệ với người khác. Con người là loài vật duy nhất có khả năng tự ý thức và tự làm chủ chính mình. Khả năng hiểu về bản thân là điều khiến cho nhân loại trở thành loài có khả năng nhất trong sáu cõi về khả năng tu tập để đạt đến giác ngộ. Con ngườiđộng vật không chỉ khác nhau về lối sống mà còn khác nhau về những mức độ ý thức. Một con vật chỉ có ý thức về những thứ xung quanh chúng, về thế giới bên ngoài. Con người thì tiến bộ hơn thế, con người không chỉ ý thức về thế giới bên ngoài mà còn ý thức về bản thân, về toàn bộ sự sống của mình.

Vì thế, bước đầu tiên hướng đến sự giác ngộ chính là hiểu “ngã” là gì. Nó tồn tại hay không tồn tại? Nó thường hằng hay không thường hằng? Theo triết học Phật giáo, “ngã” là một thực thể gồm có hai đặc tính: kết hợp và thay đổi. Thân thể của chúng ta, cuộc sống của chúng ta là sự kết hợp của bốn yếu tố: chất cứng, chất ướt, không khí, hơi nóng. Chúng ta không thể nào sống được nếu bốn thứ này tách rời nhau, bởi vì cái mà chúng ta gọi là “thân thể của mình” là gồm có bốn yếu tố vật lý ấy kết hợp với nhauduy trì sự kết hợp ấy.

Tuy nhiên, cuộc sống của chúng ta không chỉ có thân thể vật lý mà còn có phần tâm thức nữa. Do vậy, triết học Phật giáo dẫn chúng ta đến sự ý thức về một thứ khác, đó là tâm thức. Tâm là gì? Có phải nó là một thực thể? Nó có tồn tại mãi không? Nó có vật chất không? Theo tư tưởng của Phật giáo, tâm được cấu thành bởi bốn yếu tố khác nhau, đó là: thọ, tưởng, hành, và thức. Tâm không phải là một thực thể, không thường hằng, không thực. Nói cách khác, cuộc sống của chúng ta được duy trì vì thân và tâm kết hợp lại với nhau. Chính thân và tâm vốn đã không thực, chúng là sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Bởi vì chúng là sự kết hợp của nhiều thành tố, cho nên sự sống dễ thay đổi. Từ quá khứ đến hiện tại và đến tương lai, sự sống thay đổi trong từng sát na. Không có gì là thường hằng trong thế giới này cả. Cuộc sống cũng giống như vòng lửa được tạo ra khi chúng ta cầm một cây nhang và quay nhanh. Khi chúng ta ngừng quay thì vòng lửa cũng tự động biến mất. Sự vận động của cuộc sống cũng như thế. Trong kinh Kim Cang có một bài kệ rằng:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.

Tạm dịch:

Tất cả các hiện tượng trong thế giới này
Đều như mộng huyễn, bọt nước, như bóng râm
Như giọt sương, sấm chớp, như tia sáng
Mọi người cần phải ý thức được điều này.

Mặc dù được kết hợp bởi những yếu tố khác nhau, và dễ thay đổi, chúng ta vẫn tồn tại trong giờ phút hiện tại trong thế giới này. Vì thế, điều quan trọng đối với chúng tachúng ta phải biết về bản thân, phải ý thức về bản thân. Sự tự ý thức này nâng chúng ta vượt lên trên sự ý thức về tự ngã để đạt đến sự nhận chân về cái ngã đích thực, về cái ngã không thay đổi theo thời gian, về cái ngã luôn luôn đi cùng chúng ta, cái ngã đích thực, Phật tánh. Có một công án nổi tiếng trong thiền Lâm Tế rằng: “Bản lai diện mục của ngươi trước khi ngươi được sinh ra là gì?”, công án này thường được các vị thiền sư trao cho thiền sinh để giúp thiền sinh nhận chân được bản lai diện mục, nhận chân được Phật tánh. Bởi vì tự chứng ngộ là mục đích chính của thiền, nên hầu hết sự hành thiền đều nhắm vào đích điểm cuối cùng ấy.

Làm sao chúng ta có thể nhận chân được “ngã”? Làm sao chúng ta có thể sống với “chân ngã” nếu như tâm chúng ta vẫn đang lang thang và nghĩ về nhiều thứ, khi tâm còn bị quấy nhiễu bởi lo âuhạnh phúc. Để cho tâm được ổn định, đạo Phật đưa ra pháp tham thiền. Tham thiền là một kỹ thuật giữ tâm điềm tĩnh, bình lặng và thanh khiết. Trong khi thực tập, hành giả không bận tâm đến câu hỏi “Phật ở đâu?”, “Chúa ở đâu?”, cũng không lo lắng về những gì đã xảy ra trong quá khứ, hoặc điều gì sẽ diễn ra trong tương lai. Thậm chí hành giả không chú ý đến những sự kiện ở bên ngoài. Những điều bận tâm ấy là không quan trọng. Vấn đề quan trọng là phải sống với tự ngã của mình ngay bây giờ và ở đây. Thiền học giới thiệu những phương pháp giúp đem sự tỉnh thức về với “ngã”, nhận diện “ngã” ngay bây giờ và ở đây.

Trong quá trình nhận diện tự ngã, hành giả hiểu được rằng không ai có thể tồn tại một mình trên thế giới này cả. Không một ai. Người ta cần sống với một ai đó. Một hòn đảo có thể tồn tại trên đại dương, nhưng một người thì không thể tồn tại đơn lẻ. Cho nên, ngay khi hành giả hiểu rõ về chính mình, vị ấy phải nghĩ về người khác, và vị ấy phải ý thức về mối liên hệ giữa mình với người khác.

Chúng ta không thể tồn tại đơn lẻ trong cuộc đời này được. Xét về vật chất, chúng ta cần có nhau. Nhu cầu này mang chúng ta xích lại gần nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Chẳng hạn, bởi vì chúng ta không thể tự sản xuất vải và những thứ cần cho sự sống của chúng ta, cho nên chúng ta cần có người khác. Mọi người đều cần đến người khác; tất cả chúng ta, toàn thể nhân loại, đang giúp đỡ lẫn nhau. Theo triết học Phật giáo, cuộc sống là một quá trình cho và nhận. Chúng sanh được sinh ra theo nghiệp lực của cá nhân, và để nhận sự giúp đỡ từ người khác đồng thời hoàn thành trách nhiệm của mình trong sự giúp đỡ người khác. Vì thế, về đời sống vật chất, tâm linh cũng như đời sống tình cảm đều chứng tỏ rằng cuộc sống là một quá trình của cho và nhận. Tuy nhiên, trong lúc cho, chúng ta cần phải nhớ một điều: không nên tạo sự khác biệt giữa người cho và người nhận. Nếu chúng ta nghĩ rằng, chúng ta đóng vai trò người cho và người khác là người nhận, thì sẽ khiến mình nảy sinh lòng kiêu hãnh và mong cầu. Trong việc ban tặng, không nên có khái niệm người cho, vật đem cho và người nhận. Thái độ này, thuật ngữ Phật học gọi là “không”. Lúc chúng ta cho hay nhận, chúng ta nên ý thức rõ rằng, không có người nào được cho hay nhận cả. Để làm cho người nhận được hạnh phúc, chúng ta phải cho mà không nghĩ mình đang ban ơn. Chúng ta không được đặt mình vào vị trí cao hơn và nhìn xuống người khác như thể họ là những người thấp kém hơn ta. Hay nói cách khác, chúng ta phải bố thí với thái độ khiêm tốn và với lòng thương yêu.

Một phẩm chất đạo đức quan trọng của đạo Phật là lòng khiêm tốn. Khiêm tốn tức là tránh đặt mình cao hơn người khác. Theo quan điểm của Phật giáo, mọi người đều là con người, vì đều là con người nên chúng ta đều có những ưu điểm và khuyết điểm cả. Không có ai là Phật, là Bậc Toàn Giác, là người hoàn thiện cả. Nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta chưa hoàn thiện thì chúng ta cũng không đòi hỏi người khác phải hoàn thiện. Sự nhận thức này sẽ tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa ta với người. Sự ý thức rằng chúng ta chưa hoàn thiện không chỉ khiến chúng ta khiêm tốn hơn mà còn làm cho chúng ta biết tôn trọngkhoan dung hơn. Nếu chúng ta để ý đến lỗi lầm của người khác, chúng ta sẽ thất vọngđau khổ. Nếu chúng ta nhận ra rằng mình không hoàn thiện, chúng ta sẽ không yêu cầu khắt khe đối với người khác, biết tôn trọng, khoan dungthương yêu người khác nhiều hơn. Khoan dung là nhân tố quan trọng trong mối quan hệ giữa người với người.

Mọi hành động mà chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói đều tạo ra sự phản ứng nơi những người xung quanh. Ví dụ, khi chúng ta cảm thấy tức giận, người khác thấy thế cũng cảm thấy khó chịu theo, khi thấy ta hạnh phúc thì họ cũng chia sẻ niềm hạnh phúc ấy với chúng ta. Chúng ta không chỉ chia sẻ đời sống vật chất và chia sẻ những hàng hóa với người khác mà còn chia sẻ cả những yếu tố tình cảm và tâm linh nữa. Đấy chính là sự biểu hiện về mối liên hệ giữa ta và người. Bởi vì tất cả mọi người đều liên quan với nhau, không có ai là một hòn đảo đơn lẻ cả. Mỗi người chúng ta là một phần của cái tổng thể. Mọi người không tách biệt nhau, sự tách biệt giữa ta và người là không thực. Chính sự chấp ngãsi mê của chúng ta đã tạo ra sự chia rẽ đó. Nếu chúng ta vượt qua được sự chấp ngãsi mê của mình, chúng ta sẽ thấy được rằng mọi người thật sự không khác nhau. Triết học Phật giáoẤn Độ giáo diễn tả điều này như sau: “Bạn là sự mở rộng của tôi và tôi là sự mở rộng của bạn”. Tại vì mọi người là sự mở rộng của chúng ta nên khi chúng ta cố ý làm cho ai đó đau khổ thì ngay lúc đó chính chúng ta cũng đau khổ. Ngược lai, bởi vì chúng ta là sự nới rộng của người khác, nên khi họ cố tình làm hại ta thì họ cũng đang làm hại bản thân họ.

Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau. Tất cả chúng ta là những khía cạnh của cùng một thực thể, là những phần khác nhau của một tổng thể, giống như muôn vàn ngọn sóng nổi lên rồi lại lặn xuống giữa đại dương liên hệ qua lại với những biến đổi của đại dương. Tại vì chúng ta liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời trong đại dương bao la của sự tồn tại, cho nên Phật giáo khuyên mọi người nên thương yêu lẫn nhau. Chúng ta phải biết xem nhau như là sự nới rộng của cùng một thực thể. Từ đó chúng ta có thể đối xử với nhau như là những người bạn, người anh em của mình, và thế giới khổ đau, thù hận này sẽ được chuyển thành cảnh giới an bìnhhạnh phúc. Thế giới luân hồi này sẽ chuyển thành cảnh giới Niết bàn.

Người Phật tử cố gắng nuôi lớn tình thương yêu không giới hạn và sự không phân biệt ở trong tâm trong lúc hành thiền và trong các hoạt động hàng ngày. Để thể hiện tình thương yêu này, người Phật tử luôn tự nhắc nhở bản thân về hạnh nguyện Bồ tát: “Chúng sanh vô số lượng, thệ nguyện đều độ khắp”.

Tại sao người ta cưới nhau, tại sao người ta cần bạn bè? Khi người ta ở một mình, người ta sẽ rất cô đơn, cho nên họ cưới nhau để thiết lập mối quan hệ giữa họ với người họ thương yêu. Người nam và người nữ cần bạn bè để thiết lập mối quan hệ. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ là: Chúng ta luôn nhận ra những mối quan hệ gần, nhưng lại không nhận ra những mối quan hệ xa. Chúng ta thấy mình cần một người bạn, nhưng cùng lúc đó mình lại thấy không cần những người khác, những người mà mình không xem là bạn. Chúng ta có thể cố gắng với tất cả khả năng của mình để bảo vệ bạn, nhưng cùng lúc đó chúng ta có thể cố gắng tìm cách để hại người khác, những người không được xem là bạn, mà là kẻ thù của chúng ta. Tuy nhiên, bạn hay thù thì cũng giống như âm với dương. Dương không thể nào tồn tại nếu không có âm và âm không thể nào tồn tại nếu không có dương, cũng như người nam và người nữ không thể chia lìa nhau được. Bạn và thù cũng như thế. Ai khiến cho một người trở thành bạn bè hay kẻ thù? Chính chúng ta. Nếu chúng ta thay đổi thái độ của mình đối với người khác, nếu chúng ta đối xử tử tế với người khác, thì người kia, thậm chí hiện giờ đang là kẻ thù của ta, cũng sẽ thay đổi thái độ của họ đối với ta và dần dần trở thành bạn bè của nhau. Ngược lại, nếu ta không đối xử tử tế với ai đó, thậm chí hiện giờ người đó đang là người bạn tốt nhất của ta, thì sớm muộn gì người đó cũng sẽ trở thành kẻ thù. Chúng ta phải biết rằng, bạn và thù chỉ đơn thuần khác nhau về mức độ quan hệ giữa hai người và ta là những người đã tạo ra điều đó.

Như đã đề cập ở trên, mọi người sống trong thế giới này đều có quan hệ hỗ tương lẫn nhau. Mọi cá nhân đều cần bạn bè. Tình bạn không chỉ tồn tại giữa con người với nhau, mà còn giữa con người với động vật, giữa con người với thiên nhiên. Nhiều người nuôi các con vật, như chó, mèo, cá, chim, rùa,… Một số người còn nuôi cả rắn, và những con vật cưng ít thấy khác. Việc nuôi vật cưng để thỏa mãn nhu cầu kết bạn không chỉ cần thiết cho con người mà cho cả con vật và thiên nhiên nữa. Để duy trì những mối quan hệ ấy và phát triển chúng, đạo Phật khuyên mọi người cần phải hiểu vị thế của người khác, phải phát triển sự hiểu biết lẫn nhau. Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất.

Để giữ được mối quan hệ tốt đẹp giữa mình với người khác, chúng ta cần phải tôn trọng lẫn nhau. Đây là bước thứ hai. Khi chúng ta gặp nhau, theo truyền thống của đạo Phật thì cả hai bên đều chắp tay và cúi đầu chào để bày tỏ lòng kính trọng với nhau. Sự cúi đầu này nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta phải tôn trọng lẫn nhau bởi vì tất cả chúng ta đều trở thành những vị Phật trong tương lai. Nếu chúng ta kính trọng người khác thì họ cũng sẽ kính trọngthương yêu chúng ta.

Bước thứ ba trong quá trình đảm bảo mối quan hệ tốt đẹp hơn với người khác là phải trung thực. Chúng ta phải trung thực với chính mình và với người khác. Nhờ vậy mà sự hiểu biếttôn trọng lẫn nhau nảy sinh. Trung thực với chính mình và với người khác sẽ vun đắp cho mối quan hệ giữa mọi người với nhau, giữa mình với người khác.

Một người không thể nào tồn tại đơn lẻ trong cõi đời này, cũng vậy, một gia đình không thể nào tồn tại đơn lẻ được. Gia đình là một phần của cộng đồng, cộng đồng là một phần của xã hộixã hội là một phần của nhân loại. Phật giáo đã nhận thấy được tính nhất thể của xã hội loài người, bởi vì một gia đình, một thành phố, một đất nước không thể nào tồn tại đơn lẻ. Tất cả chúng ta đều giúp đỡ lẫn nhau và liên hệ với nhau. Theo Phật giáo, nếu chúng ta muốn thế giới hòa bình thì chúng ta phải có sự an bình trong tâm mình trước đã. Nếu chúng ta muốn xã hội được hòa hợp, hạnh phúc thì chúng ta phải khiến cho tâm ta được định tĩnh, bình anhoàn thiện bản thân mình trước. 

Theo quan điểm phương Tây, người ta tin rằng, muốn có hòa bình thì phải chiến đấu, vì theo họ, hòa bình nên là một sự hòa bình trong chiến thắng và danh giá. Họ lập luận rằng, hãy xây dựng lực lượng quân sự, chúng ta sẽ xây dựng được hòa bình. Đây có thể là một phương pháp, nhưng mà chúng ta có nhiều phương thức khác nhau. Nếu chúng ta đi theo đường hướng của đạo Phật, thì trước hết chúng ta phải có được sự an bình trong tâm hồn, trong cuộc sống của chúng ta. Khi tâm ta an bình, đời sống an bình, chính ta được an bình thì sẽ tác động đến người khác để phát triển những tâm hồn bình an, những gia đình hòa hợp, những xã hội hòa bình, và chúng ta có được sự hòa bình lâu dài.

Đức Phật dạy rằng, sự hòa bình lâu dài không bao giờ có thể được tạo nên bởi sự thù hận, khủng bố hay chiến tranh. Sự hòa bình được xây dựng trên sự hung hăng, chống đối sẽ không thể kéo dài được. Như Đại đế A Dục, một vị hoàng đế Phật tử của xã hội Ấn Độ cổ đại đã nói: “Hận thù không thể nào được chấm đứt bằng chiến tranh, hận thù chỉ có thể chấm dứt bằng tình thương yêu”. Đức Phật dạy rằng, nếu chúng ta muốn chấm dứt chiến tranh, chúng ta không thể dùng chiến tranh; nếu chúng ta muốn chấm dứt thù hận, chúng ta không thể nào dùng thù hận. Cách duy nhất để chấm dứt cái vòng thù hận, giết chóc tồi tệ ấy là sử dụng một sức mạnh hiệu nghiệm hơn, sức mạnh của tình thương yêu. Thông qua tình thương yêu, lòng bao dung, sự hiểu biếttôn trọng lẫn nhau mà chúng ta có thể chiến thắng kẻ thù. Theo cách này, chúng ta chuyển hóa những kẻ thù của chúng ta thành bạn bè. Cách tốt nhất để tạo dựng một thế giới hòa bình là thông qua sự tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau giữa người với người, giữa những cộng đồng, những quốc gia với nhau.

(Trích dịch từ sách “Zen philosophy, Zen practice” của HT. Thích Thiên Ân, Dharma Publishing and Colloge of Oriental studies xuất bản, America, 1975).

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12255)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11024)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10911)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13357)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11781)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13663)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11906)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11169)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12191)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12400)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20591)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12417)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12448)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11708)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11585)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22413)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13563)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29662)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11539)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16727)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11992)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16829)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12069)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17919)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12632)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13153)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14748)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22614)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10577)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14043)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13867)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13713)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13861)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13931)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14826)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13842)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18409)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22791)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15393)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17316)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22408)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14262)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12575)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11153)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17763)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13203)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13098)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18787)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17173)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13494)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12910)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14695)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14654)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15864)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13509)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27426)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13223)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16686)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21382)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18806)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant