Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13451)
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương"
trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc 
Nguyên Thái Hòa

Đa Văn Thiên Vương là một vị thần trong thần thoại của Ấn Độ cổ. Theo truyền thuyết, ngài là thần Dạ xoa có tên Kuvera hay Kubera. Ngoài ra, ngài cũng được gọi là Vaiśravana hoặc Vessavana, phiên âm Hán Việt là Tỳ Sa Môn. Còn xung quanh việc xuất thân của ngài, cho đến nay vẫn còn nhiều truyền thuyết khác nhau. Nhưng có một truyền thuyết phổ biến nhất kể lại rằng: Kubera (phiên âm Hán Việt: Câu Tỳ La) được vị thần sáng tạo của Ấn ĐộĐại Phạm Thiên sai bò mẹ mang thai và sinh ra. Thần vốn hiền lành, không thích tranh đấu nên bị người em khác mẹ là La Sát Vương đuổi đến Lanka (nay là Srilanka), về sau, thần di cư đến Cương Nhân Ba Tề (núi thần của Phật giáo tại A Lý - Tây Tạng). Mặc dù bị đuổi khỏi gia đình, nhưng do có căn tu cộng thêm hàng ngàn năm khổ luyện, nên Kubera được Đại Phạm Thiên ban cho sự trường sinh bất tử, trong coi kho báu của thế gian và cũng là vị thần bảo hộ của phương Bắc. Tại Ấn Độ, vai trò của Kubera quan trọng không kém gì thần đầu voi Ganesa(1).

Sau khi được du nhập vào Phật giáo Ấn Độ, Tỳ Sa Môn trở thành một vị trấn giữ phương Bắc của cõi trời thứ nhất trong Dục giới, chuyên hàng phục chúng ma, bảo hộ Phật pháp cùng chúng sanh. Bởi theo quan niệm thế giới quan của Phật giáo, thế giới chia làm ba cõi: Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới, gọi chung là Tam giới. Theo đó, tất cả chúng sanhthế gian đều chịu kiếp luân hồi trong Tam giới này, và chỉ khi nào tu hành đạt đến cảnh giới Niết bàn thành Phật thì mới thoát ra khỏi, không còn chịu kiếp nạn luân hồi. Trong Tam giới, Dục giới là giới thấp nhất, có: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, loài người cùng một bộ phận thiên thần. Trong Dục giới lại có 6 cõi trời, và cõi thứ nhất chính là nơi ngự trị của Tỳ Sa Môn. Và cũng như các vị Hộ pháp khác, Tỳ Sa Môn được miêu tả mình mặc giáp trụ, thân màu lục, mặt vàng, tay cầm lọng báu che chở cho chúng sanh. Trong “Đại tập kinh” có ghi, đó là trách nhiệm to lớn của Ngài mà chư Phật đã ủy thác ở cả hiện tạivị lai(2).

Khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc, người Trung Quốc xưng tụng Ngài là Duō Wén Tiān Wáng (多闻天王), phiên âm Hán Việt là Đa Văn Thiên Vương, với ý nghĩa là “vị thiên vương nghe cả thế giới”. Từ đó, theo từng vùng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa Trung Quốc mà tên gọi của vị thần này được phiên âm khác nhau. Tại Nhật Bản, vị thần này được gọi là Tamon-ten hoặc Bishamon-ten, tại Hàn Quốc là Damun-cheonwang(3) và tại Việt Nam cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương.

Đa Văn Thiên Vương cùng với các vị thần Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương hợp thành Tứ Đại Thiên Vương và đều là thành viên của 20 chư thiên. Theo truyền thuyết Phật giáo, các vị này là những Thiên vương dẫn đầu trong 8 vị thần tướng, trấn giữ 4 phương của núi Tu Di, nên cũng gọi là “Tứ Thiên Vương”, “Tứ Đại Kim Cang”, “Hộ Thế Thiên”... Trách nhiệm của các vị là hộ trì Phật pháp, bảo vệ chúng sanh, đem lại cho chúng sanh sự an cư lạc nghiệp, tài bảo đầy đủ, phúc đức tăng trưởng, tiến vào Chánh pháp. Do vậy, từ xưa đến nay, Tứ Đại Thiên Vương có mối quan hệ rất gần gũi và mật thiết với chúng sanh, được tôn thờ ở nhiều nơi, trong các chùa, miếu trên khắp Trung Quốc. Mà hình tượng thường thấy nhất là 4 vị to lớn, uy nghi, được đặt ở Thiên Vương điện, gần cổng chính khi vào chùa.

Truyền thuyết dân gian Trung Quốc đã nhắc đến các vị này từ thế kỷ thứ IV, nhưng phải đến thời Đường (618 - 907), hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương mới lần đầu tiên xuất hiện qua các thư tịch cổ cùng những bức tượng, phù điêu bằng gỗ, đồng hay trên vách đá... còn lưu lại đến ngày nay, với: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương, thân màu trắng, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm đao, tay phải cầm trường mâu hoặc cầm cung tên; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương, thân màu xanh, mình mặc giáp trụ, tay cầm bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương, thân màu đỏ, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm trường mâu, tay phải cầm xích thừng, cũng có lúc một tay cầm bảo kiếm; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương, thân màu lục, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm gậy tích trượng hoặc trường mâu, tay phải cầm bảo tháp. Dưới chân của Tứ Thiên Vương đều giẫm lên một con quỷ biểu thị cho uy lực của Chánh pháp(4). Sau thời Nguyên (1271 - 1368), Phật giáo ở nhiều địa phương của người Hán từng bước được Hán hóa, theo đó mà hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương cũng có một vài thay đổi về phong cách tạo hình. Cụ thể: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương tay cầm đàn tỳ bà; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương tay cầm thanh quang bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương tay cầm con rắn; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương tay cầm lọng báu, phân chức thành Phong, Điều, Vũ, Thuận.

Trong Tứ Đại Thiên Vương, thì Bắc phương Đa Văn Thiên Vương là vị thần nổi danh nhất. Ngài vừa là hộ thần của phương Bắc Ấn Độ cổ, lại là vị thần tài phú, dùng võ để giúp người, được đại chúng kính ngưỡng, tôn thờ và Ngài cũng là vị thần được tôn thờ sớm nhất trong Tứ Đại Thiên VươngTrung Quốc. Tại các hang đá ở Vân Cương (tỉnh Sơn Tây, đã được UNESCO công nhậnDi sản Văn hóa thế giới vào năm 2001), Long Môn (tỉnh Hà Nam) đã sớm có những bức tượng về Ngài. Sở dĩ như vậy, là theo truyền thuyết dân gian, vào thời nhà Đường, niên hiệu Thiên Bảo nguyên niên (742), có giặc Tây Vực sang xâm chiếm thành Tây An. Lúc này, Đa Văn Thiên Vương đã hiện thân tại lầu thành Bắc Môn, dẫn trăm thần binh nghênh chiến với địch, phái “sóc vàng” cắn đứt dây cung của quân địch, đại phá vòng vây. Để cảm phục ơn đức của Ngài, Đường Huyền Tông lập tức truyền lệnh cho các châu, phủ, thành ở vùng giáp ranh Tây bắc đều tạc tượng Thiên Vương, sau đó lại lệnh cho các ngôi chùa xây dựng “biệt viện” mà đặc biệt thờ phụng Ngài(5). Và cho đến ngày nay, ở các địa phương này của Trung Quốc, Đa Văn Thiên Vương còn được xem là một vị thần chiến đấu và tín ngưỡng tôn thờ Ngài cực thịnh.

Đa Văn Thiên Vương là vị thần trấn giữ phương Bắc, Ngài đồng thời bảo hộ Phật pháp, thường xuyên nghe Như Lai thuyết pháp, nên gọi là Đa Văn Thiên Vương, lại là vị thần tài bố thí, vượt biển hành đạo, ban bố tài bảo kim lượng cho chúng sanh. Với công đức vô lượng của Ngài như vậy, nên trong dân gian thờ phụng rất phổ biến, gọi Ngài là “Đa Bảo Thiên Vương” hay “Tài Bảo Thiên Vương”. Và tín ngưỡng dân gian cũng tin rằng, Ngài chính là hóa thân của một vị Đại Bồ tát.

Trong Phật giáo Mật tông, Tài Bảo Thiên Vương là một trong bảy Phúc thần, hình tượng thường thấy của Ngài là cưỡi trên con sư tử, đầu đội Bảo quang, toàn thân màu vàng kim, tay phải cầm lọng, tay trái nắm con “sóc vàng” miệng nhả hạt châu bảo, tượng trưng cho tài phú liên tục không ngừng. Ngài là vị thần nắm giữ việc chuyển hóa phúc báocông đức, tài phú của thế gian, bảo hộ Phật pháp, diệt trừ ma chướng, làm thanh tịnh cảnh giới Ta bà.

Đa Văn Thiên Vương hay Tài Bảo Thiên Vương, là một trong những vị thần của Đế Thích, có năng lực bảo hộ thế gian, nên cũng được gọi là Hộ Thế Giả. Danh hiệu của Ngài: Bắc phương Tỳ Sa Môn Đa Văn Thiên Vương, là biểu hiện cho sự phúc đức công hạnh của Ngài và là sự hóa thân của Nam phương Bảo Sanh Phật trong Ngũ phương Phật. Bên cạnh Ngài còn có 8 vị tài thần thuộc hạ, gọi là “Bát tuấn Tài thần” hay “Bát lộ Tài thần”, nắm giữ ở 8 hướng, cùng giúp cứu độ chúng sanh, làm sung túc, đủ đầy nguyện cầu của tín chúng.

Theo giáo lý Phật giáo, muốn nhận được sự gia trì của Tài Bảo Thiên Vương và Bát Lộ Tài Thần, thì chúng sanh cần giữ được “Tam quy, Ngũ giới”, như chuyên tâm niệm chú, có tấm lòng từ bi hỷ xả, và thường phát hạnh nguyện làm việc thiện mang lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh, lúc đó sự nghiệp sẽ thuận lợi, mọi kế hoạch lớn nhỏ đều phát triển, hanh thông, cầu tài được tài, tương ứng nhanh chóng.

Ngày nay, trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, mà đặc biệttín ngưỡng thờ thần tài, bên cạnh các vị thần như: Triệu Công Minh, Quan Vũ, Bỉ Can, Phạm Lãi..., thì có không ít các gia đình Phật tử hay trong các cửa hàng buôn bán đều thờ phụng Đa Văn Thiên Vương làm thần tài, với mong muốn được Ngài bảo vệ, chở che cũng như mua may bán đắt - như ở thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Còn tại núi Phi Lai, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, có nhiều gian thờ Đa Văn Thiên Vương được tạc trên vách núi, có cặp liễn đối nói về nguyện vọng của thiện nam tín nữ trong việc tôn thờ Ngài rằng:

秉教统领诸天大千世界

以宝普施众地不二法门

Bỉnh giáo thống lĩnh chư thiên đại thiên thế giới

Dĩ bảo phổ thí chúng địa bất nhị pháp môn

Tạm dịch:

Nắm chắc giáo lý của Phật, quản lãnh chư thiên khắp các cõi trời trong muôn ngàn thế giới.

Lấy Pháp bảo của Phật, ban khắp thế gian hướng chúng sanh đến con đường duy nhấtgiải thoát

 

(1) 诺布旺典: (唐卡中的财神), 152页, 陕西师范大学出版社, 2009 年.

(2) 诺布旺典: (藏密财神法), 224页, 紫禁城出版社, 2008 年.

(3) http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90a_V% C4%83n_thi%C3%AAn_v%C6%B0%C6%A1ng

(4) 李跃忠: (财神),107-108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

(5) 李跃忠: (财神), 108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 仓圣: (财神图说), 哈尔滨: 黑龙江美术出版社, 2005年.

2. 马书田, 马书侠: (全像福寿财神), 江西美术出版社, 2008 年.

3. 诺布旺典: (藏密财神法), 紫禁城出版社, 2008 年.

4. 李跃忠: (财神), 中国社会出版社, 2009 年.

5. 诺布旺典: (唐卡中的财神), 陕西师范大学出版社, 2009 年.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1657)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1625)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1033)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1512)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1489)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1676)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1940)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1523)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1353)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1371)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1549)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1143)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1276)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1695)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1641)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3000)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1824)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1364)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1278)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1408)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1322)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1919)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1682)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1891)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1820)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2391)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1785)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2128)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2195)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2300)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1854)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1977)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2031)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1956)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2594)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1947)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1944)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1896)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2167)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2300)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1978)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2085)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1885)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1904)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2409)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2322)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3996)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2480)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3197)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2044)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1796)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2344)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3027)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2700)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant