Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13362)
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương" trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc
Hình tượng "Đa Văn Thiên Vương"
trong văn hóa Phật giáo Trung Quốc 
Nguyên Thái Hòa

Đa Văn Thiên Vương là một vị thần trong thần thoại của Ấn Độ cổ. Theo truyền thuyết, ngài là thần Dạ xoa có tên Kuvera hay Kubera. Ngoài ra, ngài cũng được gọi là Vaiśravana hoặc Vessavana, phiên âm Hán Việt là Tỳ Sa Môn. Còn xung quanh việc xuất thân của ngài, cho đến nay vẫn còn nhiều truyền thuyết khác nhau. Nhưng có một truyền thuyết phổ biến nhất kể lại rằng: Kubera (phiên âm Hán Việt: Câu Tỳ La) được vị thần sáng tạo của Ấn ĐộĐại Phạm Thiên sai bò mẹ mang thai và sinh ra. Thần vốn hiền lành, không thích tranh đấu nên bị người em khác mẹ là La Sát Vương đuổi đến Lanka (nay là Srilanka), về sau, thần di cư đến Cương Nhân Ba Tề (núi thần của Phật giáo tại A Lý - Tây Tạng). Mặc dù bị đuổi khỏi gia đình, nhưng do có căn tu cộng thêm hàng ngàn năm khổ luyện, nên Kubera được Đại Phạm Thiên ban cho sự trường sinh bất tử, trong coi kho báu của thế gian và cũng là vị thần bảo hộ của phương Bắc. Tại Ấn Độ, vai trò của Kubera quan trọng không kém gì thần đầu voi Ganesa(1).

Sau khi được du nhập vào Phật giáo Ấn Độ, Tỳ Sa Môn trở thành một vị trấn giữ phương Bắc của cõi trời thứ nhất trong Dục giới, chuyên hàng phục chúng ma, bảo hộ Phật pháp cùng chúng sanh. Bởi theo quan niệm thế giới quan của Phật giáo, thế giới chia làm ba cõi: Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới, gọi chung là Tam giới. Theo đó, tất cả chúng sanhthế gian đều chịu kiếp luân hồi trong Tam giới này, và chỉ khi nào tu hành đạt đến cảnh giới Niết bàn thành Phật thì mới thoát ra khỏi, không còn chịu kiếp nạn luân hồi. Trong Tam giới, Dục giới là giới thấp nhất, có: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, loài người cùng một bộ phận thiên thần. Trong Dục giới lại có 6 cõi trời, và cõi thứ nhất chính là nơi ngự trị của Tỳ Sa Môn. Và cũng như các vị Hộ pháp khác, Tỳ Sa Môn được miêu tả mình mặc giáp trụ, thân màu lục, mặt vàng, tay cầm lọng báu che chở cho chúng sanh. Trong “Đại tập kinh” có ghi, đó là trách nhiệm to lớn của Ngài mà chư Phật đã ủy thác ở cả hiện tạivị lai(2).

Khi Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc, người Trung Quốc xưng tụng Ngài là Duō Wén Tiān Wáng (多闻天王), phiên âm Hán Việt là Đa Văn Thiên Vương, với ý nghĩa là “vị thiên vương nghe cả thế giới”. Từ đó, theo từng vùng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa Trung Quốc mà tên gọi của vị thần này được phiên âm khác nhau. Tại Nhật Bản, vị thần này được gọi là Tamon-ten hoặc Bishamon-ten, tại Hàn Quốc là Damun-cheonwang(3) và tại Việt Nam cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương.

Đa Văn Thiên Vương cùng với các vị thần Trì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương hợp thành Tứ Đại Thiên Vương và đều là thành viên của 20 chư thiên. Theo truyền thuyết Phật giáo, các vị này là những Thiên vương dẫn đầu trong 8 vị thần tướng, trấn giữ 4 phương của núi Tu Di, nên cũng gọi là “Tứ Thiên Vương”, “Tứ Đại Kim Cang”, “Hộ Thế Thiên”... Trách nhiệm của các vị là hộ trì Phật pháp, bảo vệ chúng sanh, đem lại cho chúng sanh sự an cư lạc nghiệp, tài bảo đầy đủ, phúc đức tăng trưởng, tiến vào Chánh pháp. Do vậy, từ xưa đến nay, Tứ Đại Thiên Vương có mối quan hệ rất gần gũi và mật thiết với chúng sanh, được tôn thờ ở nhiều nơi, trong các chùa, miếu trên khắp Trung Quốc. Mà hình tượng thường thấy nhất là 4 vị to lớn, uy nghi, được đặt ở Thiên Vương điện, gần cổng chính khi vào chùa.

Truyền thuyết dân gian Trung Quốc đã nhắc đến các vị này từ thế kỷ thứ IV, nhưng phải đến thời Đường (618 - 907), hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương mới lần đầu tiên xuất hiện qua các thư tịch cổ cùng những bức tượng, phù điêu bằng gỗ, đồng hay trên vách đá... còn lưu lại đến ngày nay, với: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương, thân màu trắng, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm đao, tay phải cầm trường mâu hoặc cầm cung tên; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương, thân màu xanh, mình mặc giáp trụ, tay cầm bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương, thân màu đỏ, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm trường mâu, tay phải cầm xích thừng, cũng có lúc một tay cầm bảo kiếm; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương, thân màu lục, mình mặc giáp trụ, tay trái cầm gậy tích trượng hoặc trường mâu, tay phải cầm bảo tháp. Dưới chân của Tứ Thiên Vương đều giẫm lên một con quỷ biểu thị cho uy lực của Chánh pháp(4). Sau thời Nguyên (1271 - 1368), Phật giáo ở nhiều địa phương của người Hán từng bước được Hán hóa, theo đó mà hình tượng của Tứ Đại Thiên Vương cũng có một vài thay đổi về phong cách tạo hình. Cụ thể: Đông phương Trì Quốc Thiên Vương tay cầm đàn tỳ bà; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương tay cầm thanh quang bảo kiếm; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương tay cầm con rắn; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương tay cầm lọng báu, phân chức thành Phong, Điều, Vũ, Thuận.

Trong Tứ Đại Thiên Vương, thì Bắc phương Đa Văn Thiên Vương là vị thần nổi danh nhất. Ngài vừa là hộ thần của phương Bắc Ấn Độ cổ, lại là vị thần tài phú, dùng võ để giúp người, được đại chúng kính ngưỡng, tôn thờ và Ngài cũng là vị thần được tôn thờ sớm nhất trong Tứ Đại Thiên VươngTrung Quốc. Tại các hang đá ở Vân Cương (tỉnh Sơn Tây, đã được UNESCO công nhậnDi sản Văn hóa thế giới vào năm 2001), Long Môn (tỉnh Hà Nam) đã sớm có những bức tượng về Ngài. Sở dĩ như vậy, là theo truyền thuyết dân gian, vào thời nhà Đường, niên hiệu Thiên Bảo nguyên niên (742), có giặc Tây Vực sang xâm chiếm thành Tây An. Lúc này, Đa Văn Thiên Vương đã hiện thân tại lầu thành Bắc Môn, dẫn trăm thần binh nghênh chiến với địch, phái “sóc vàng” cắn đứt dây cung của quân địch, đại phá vòng vây. Để cảm phục ơn đức của Ngài, Đường Huyền Tông lập tức truyền lệnh cho các châu, phủ, thành ở vùng giáp ranh Tây bắc đều tạc tượng Thiên Vương, sau đó lại lệnh cho các ngôi chùa xây dựng “biệt viện” mà đặc biệt thờ phụng Ngài(5). Và cho đến ngày nay, ở các địa phương này của Trung Quốc, Đa Văn Thiên Vương còn được xem là một vị thần chiến đấu và tín ngưỡng tôn thờ Ngài cực thịnh.

Đa Văn Thiên Vương là vị thần trấn giữ phương Bắc, Ngài đồng thời bảo hộ Phật pháp, thường xuyên nghe Như Lai thuyết pháp, nên gọi là Đa Văn Thiên Vương, lại là vị thần tài bố thí, vượt biển hành đạo, ban bố tài bảo kim lượng cho chúng sanh. Với công đức vô lượng của Ngài như vậy, nên trong dân gian thờ phụng rất phổ biến, gọi Ngài là “Đa Bảo Thiên Vương” hay “Tài Bảo Thiên Vương”. Và tín ngưỡng dân gian cũng tin rằng, Ngài chính là hóa thân của một vị Đại Bồ tát.

Trong Phật giáo Mật tông, Tài Bảo Thiên Vương là một trong bảy Phúc thần, hình tượng thường thấy của Ngài là cưỡi trên con sư tử, đầu đội Bảo quang, toàn thân màu vàng kim, tay phải cầm lọng, tay trái nắm con “sóc vàng” miệng nhả hạt châu bảo, tượng trưng cho tài phú liên tục không ngừng. Ngài là vị thần nắm giữ việc chuyển hóa phúc báocông đức, tài phú của thế gian, bảo hộ Phật pháp, diệt trừ ma chướng, làm thanh tịnh cảnh giới Ta bà.

Đa Văn Thiên Vương hay Tài Bảo Thiên Vương, là một trong những vị thần của Đế Thích, có năng lực bảo hộ thế gian, nên cũng được gọi là Hộ Thế Giả. Danh hiệu của Ngài: Bắc phương Tỳ Sa Môn Đa Văn Thiên Vương, là biểu hiện cho sự phúc đức công hạnh của Ngài và là sự hóa thân của Nam phương Bảo Sanh Phật trong Ngũ phương Phật. Bên cạnh Ngài còn có 8 vị tài thần thuộc hạ, gọi là “Bát tuấn Tài thần” hay “Bát lộ Tài thần”, nắm giữ ở 8 hướng, cùng giúp cứu độ chúng sanh, làm sung túc, đủ đầy nguyện cầu của tín chúng.

Theo giáo lý Phật giáo, muốn nhận được sự gia trì của Tài Bảo Thiên Vương và Bát Lộ Tài Thần, thì chúng sanh cần giữ được “Tam quy, Ngũ giới”, như chuyên tâm niệm chú, có tấm lòng từ bi hỷ xả, và thường phát hạnh nguyện làm việc thiện mang lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh, lúc đó sự nghiệp sẽ thuận lợi, mọi kế hoạch lớn nhỏ đều phát triển, hanh thông, cầu tài được tài, tương ứng nhanh chóng.

Ngày nay, trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, mà đặc biệttín ngưỡng thờ thần tài, bên cạnh các vị thần như: Triệu Công Minh, Quan Vũ, Bỉ Can, Phạm Lãi..., thì có không ít các gia đình Phật tử hay trong các cửa hàng buôn bán đều thờ phụng Đa Văn Thiên Vương làm thần tài, với mong muốn được Ngài bảo vệ, chở che cũng như mua may bán đắt - như ở thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Còn tại núi Phi Lai, thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, có nhiều gian thờ Đa Văn Thiên Vương được tạc trên vách núi, có cặp liễn đối nói về nguyện vọng của thiện nam tín nữ trong việc tôn thờ Ngài rằng:

秉教统领诸天大千世界

以宝普施众地不二法门

Bỉnh giáo thống lĩnh chư thiên đại thiên thế giới

Dĩ bảo phổ thí chúng địa bất nhị pháp môn

Tạm dịch:

Nắm chắc giáo lý của Phật, quản lãnh chư thiên khắp các cõi trời trong muôn ngàn thế giới.

Lấy Pháp bảo của Phật, ban khắp thế gian hướng chúng sanh đến con đường duy nhấtgiải thoát

 

(1) 诺布旺典: (唐卡中的财神), 152页, 陕西师范大学出版社, 2009 年.

(2) 诺布旺典: (藏密财神法), 224页, 紫禁城出版社, 2008 年.

(3) http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90a_V% C4%83n_thi%C3%AAn_v%C6%B0%C6%A1ng

(4) 李跃忠: (财神),107-108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

(5) 李跃忠: (财神), 108 页, 中国社会出版社, 2009 年.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 仓圣: (财神图说), 哈尔滨: 黑龙江美术出版社, 2005年.

2. 马书田, 马书侠: (全像福寿财神), 江西美术出版社, 2008 年.

3. 诺布旺典: (藏密财神法), 紫禁城出版社, 2008 年.

4. 李跃忠: (财神), 中国社会出版社, 2009 年.

5. 诺布旺典: (唐卡中的财神), 陕西师范大学出版社, 2009 年.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4156)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2258)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3418)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4093)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3863)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2811)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3288)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3420)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4469)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3795)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4670)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 3951)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 2942)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3697)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3826)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 2998)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3545)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4385)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3651)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2171)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2544)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 2966)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2649)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4540)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4865)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2779)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5136)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2789)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3196)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4313)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4855)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4605)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3165)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4490)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4211)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6072)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3459)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 3967)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 5941)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5348)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 3967)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3116)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4088)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4676)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 2999)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3744)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3478)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6476)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2718)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3176)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4476)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3369)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7225)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4413)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4457)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7131)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2891)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12008)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3889)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant