Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

04. Sự tích và tu theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âm

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13025)
04. Sự tích và tu theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âm

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
Sự tích và Tu theo hạnh Bồ Tát QUAN THẾ ÂM

Hôm nay tôi cống hiến quí độc giả tìm hiểu về sự tích, lịch sử và làm sao để tu theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âmmọi người dân Việt, nhất là trong giới Phật tử thường mỗi khi gặp nạn thì hay niệm danh hiệu của ngài "Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn", nhưng thực tế ít ai hiểu rõ về chân lý, sự tích, xuất xứ từ đâu, nguồn gốc của Quan Thế Âm như thế nào. Do đó, tôi mới cố gắng đi sưu tầm, tham khảo các kinh sách để cụ thể hóa ra bài này hầu góp phần trong nền văn hoá Phật Giáo và phổ biến đến quí độc giả bốn phương am tường. (Nếu có gì thiếu sót kính xin quí chư Tăng, Ni cao minh, quí thiện trí thức niệm tình thứ lỗi và xin cung cấp thêm tư liệu cho được phong phú hơn).

Quan Thế Âm tiếng Phạn dịch là “Bodhisattva Avalokitesvara" dịch sang tiếng Hán là Quan Thế Âm hay Quán Tự Tại… Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Theo kinh Bi Hoa thì ở vào đời quá khứđức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như Lai, thời đó có vua Chuyển Luân Thánh VươngVô Tránh Niệm. Vua có quan đại thầnBảo Hải, phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại nguyện. Do đó, Đức Bảo Tạng thụ ký cho Vua (khi đó đã là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này thành Phật hiệu là A Di Đàthế giới cực lạc.

Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng do ngài Bảo Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng sanh bị khổ não, vì vậy Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử thành Bồ Tát hiệuQuan Thế Âm, còn Bảo Hảitiền thân của Đức Thích Ca Mâu Ni. Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử rằng: "Vì lòng đại bi Ông muốn quán niệm cho tất cả chúng sanh được cùng về cõi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên cho Ông là Quan Thế Âm…

Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si. Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bithực hiện đại thệ nguyện độ sanh của Ngài.

TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường nói: Từ thiện, từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích kỷ tâm… BI là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ. Từ là lòng yêu thương, Bi là ra tay giải quyết và dấn thân nỗ lực làm việc để cứu giúp thực tế. Tóm lại Từ Bi: (thuật ngữ) Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là Từ (maritrya, maitri). Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là Bi.

Quán Thế Âm xưa kia Ngài đã thành Phật hiệu là "Chánh Pháp Minh Như Lai". Ngài thị hiện làm Bồ Tát vì muốn đảm đương công tác cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Đức Bồ Tát quán thấy Phật và chúng sanh đồng chung một bản thể, đồng chung một giác tánh duy nhất, nhưng Phật đã giác ngộchúng sanh thì còn mê.

Do đó, Đức Quan Thế Âm tức là một vị Phật tương lai sẽ bổ vào ngôi của Đức Phật A Di Đà, thì ngài cùng với ngài Đại Thế Chí (kiếp xưa là em ngài, con thứ vua Chuyển Luân cũng cùng Ngài đồng thời được Đức Bảo Tạng thụ ký) giúp việc giáo hóa độ sanh cho Đức Phật A Di Đà và 2 Ngài cũng ứng thân xuống Ta Bà trợ giáo cho Đức Thích Ca Mầu Ni.

Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm có chép lời Ngài bạch với Đức Thế Tôn rằng: "Con nhớ cách đây vô số hằng hà sa kiếp về trước có Đức Phật ra đời hiệu là Quan Thế Âm, từ Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu mà vào Tam Ma Đề". Do đó nên biết: Ngài đã phát tâm Bồ Đề từ đời Đức Phật Quan Thế Âm trong vô số hằng hà sa kiếp về trước do nghe Phật truyền pháp, Ngài đã nhận định pháp tu viên thông về nhĩ căn là hơn tất cả, do ngài khó chứng viên thôngnhĩ căn nên được Đức Phật thụ ký cho ngài danh hiệu Quán Thế Âm một danh hiệuchúng sanhmười phương cung kính chấp trì nhất là trong những lúc nguy hiểm, đau khổ.

Ngoài ra, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: "Xưa kia Ngài Quán Thế Âm đã thành Phật hiệu là "Chính Pháp Minh Như Lai". Tiền thân Đức Thích Ca hồi ấy đã từng ở dưới pháp tòa, xung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi". Ngày nay Đức Thích Ca thành Phật, thời Ngài trở lại làm đệ tử để gần gũi lại: "Một Đức Phật ra đời thì hàng ngàn Đức Phật phù trì".

blank

Tác giả đứng dưới chân tượng Quan Thế Âm ở hồ
thiên nhiên tại chùa trang nghiêm ở New York city.

Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà Na Ni thì chép lời Ngài bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! con nhớ vô lượng ức kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quan Vương tĩnh trụ Như Lai". Đức Phật ấy vì thương đến con và tất cả chúng sanh nên nói ra môn đại bi tâm Đà La Ni. Ngài lại dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu con mà bảo: "Thiện Nam Tử". Ông nên trụ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi trược ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích yên vui lớn. "Lúc đó con mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền vượt lên chứng đại bát địa".

Mật tông thì theo trong kinh Đại bản như ý nói có 8 vị đại Quan Âm là: 

1.- Viên Mãn Ý, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.
2.- Bạch Y Tự Tại.
3.- Cát La Sát Nữ.
4.- Tứ Diện Quán Âm.
5.- Mã Đầu La Sát.
6.- Tỳ Cầu Chi.
7.- Đại Thế Chí.
8.- Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).

Ngài có đức uy thần công đứclòng từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là nữ tướng, nhưng vì ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ thường nhiều khổ nạn hơn so với nam giới) cho nên giới phụ nữ đặc biệt tín ngưỡng về Ngài. Nên chúng sanh mới tưởng tượng ra Ngài là nữ tướng để tiện hóa độ cho phụ nữ. Theo kinh A-Di- Đà nói: Người sanh về cõi cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A Hàm nói người nữ có 5 chướng không thể thành Phật... Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân người Nữ?

Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Đức Từ Bi, muốn nói lên tình Mẹ thương con, Mẹ đối với con là tình thương chân thành, tha thiết nhất khôngtình thương nào sánh bằng. Cho nên, Đức Quan Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh.

Mẹ hỡi, mẹ ơi! hỡi Mẹ Hiền!
Chẳng hay hồn Mẹ có linh thiêng

Về đây chứng chiếu lòng con thảo

Đang đốt nén hương vái khẩn, nguyền.

Căn cứ theo hình tướng đã thể hiện và đức tính Quan Thế Âm đã cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, nhân loại được thoát khổ đau ở ta bà này to lớn biết chừng nào!

Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân

Hiếu là độ được đấng thân

Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài

Tinh thông nghìn mắt nghìn tay

Cũng trong một điểm linh đài hóa ra

Xem trong biển nước nam ta

Phổ mônĐức PhậtQuan Âm.

Cho nên, Phật Tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào: Mật Tông, Tịnh Độ hay Thiền Tông cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài. Ngài gia hộ, độ trì cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người chúng ta đều phải niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát" thì được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau chóng thành tựu theo sở cầu như nguyện.

TU THEO HẠNH QUAN ÂM

Diệu âm, Quan Thế Âm,
Phạm âm, hải triều âm,

Thắng bỉ thế gian âm,

Thị cố tu thường niệm.

Trên đây là sự cầu xin, khấn nguyện như thế chưa đủ, người Phật tử chúng ta phải tự giải thoát lấy mình bằng cách nguyện “Tu Theo Hạnh Quan Âm”. Tu theo hạnh Quan Âm tức là tu theo toàn diện, bao trùm tất cả 4 phương diện bản hữu của cuộc sống: Tâm linh, tâm lý, trí thức và thể xác, trong mối quan hệ đặc thù riêng của mỗi người đối với môi sinh, văn hóaxã hội. Bởi thế theo kinh Hoa-Nghiêm đề cập 3 loại công hạnh:

1.- Hạnh tu trì của thân hay thân hạnh, gồm mọi hành động và lời nói.
2.- Hạnh tu trì của tâm, gọi là tâm hạnh, bao trùm tình cảm, lý trí, tư tưởng.
3.- Hạnh tu trì cho tánh (linh tánh) gọi là tánh hạnh, bao gồm những hạnh mang đặc tính siêu thoát phiền não, gọi là hạnh vô lậu, như tánh từ bi, tỉnh giác, tín tâm, thanh tịnh. Bây giờ ta sẽ xem làm sao để tu được ba hạnh này:

* Thân Hạnh (Hạnh hiện thân và hiển thân)

Hiện thân là hạnh đến với chúng sanh, những ai cần mình đến giúp. Nhiều khi mình chỉ cần hiện diện là đến, đến an lạc cho họ, không cần phải nói năng hay hành động gì cả. Hạnh này bắt nguồn từ đâu? Từ chỗ đức Quan Âm thường luôn hiện thân bất kỳ nơi đâu chúng sinh cầu ngài. Như kinh nói rằng:

Đầy đủ thần thông lực
Rộng tu trí, phương tiện

Mười phương khắp mọi chỗ

Nơi nào cũng hiện thân.

Hiến thân là hạnh dâng hiến sức lực, thể xác để lợi lạc chúng sinh và những người có duyên với mình. Nhìn xung quanh, hẳn ta sẽ thấy vô vàn cơ hội để mình đem lại an lạc cho tha nhân, dù rất ít ỏi, dù chỉ thoáng chốc. Nếu bạn hỏi thế nào là căn bản của đạo Bồ Tát thì câu trả lời là:

Không cầu tự thân được an lạc,
Chỉ mong chúng sinh đều ly khổ.

Giải toả tấm lòng nhỏ nhen ích kỷ, luôn nghĩ đến lợi ích tha nhân, đó chính là bản chất của Bồ Tát, cũng chính là hạnh hiến thân vậy.

* Tâm Hạnh (Hạnh nhu thuận và bao dung)

Theo kinh nghiệm chung, không ai muốn gần kẻ hung bạo, dữ tợn, hay cộc cằn, giận dữ, tu hạnh Bồ Tát là học làm Bồ Tát, học làm người bạn tốt với chúng sinh. Do đó, việc đầu tiên mình cần làm là tập “Nhu hòa, tuỳ thuận” mà trong kinh Hoa Nghiêm gọi là hạnh “Nhu thuận”. Đức Quan Âm là vị Bồ Tát đại biểu cho lòng nhu thuận rõ ràng nhất: Đối với bất kỳ chúng sinh tốt xấu, dữ hiền, ngài vẫn bày tỏ thái độ nhu hòa và tấm lòng bao dung, sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng che chở.

Bao dung không những diễn ta một cõi lòng rộng rãi, biết tha thứ, mà còn bao hàm một tâm thức cởi mở, một vũ trụ quan rộng rãi có thể chứa đựng được quan điểm hay kiến giải của tha nhân. Một khi vũ trụ quan ta nhỏ hẹp thì mình khó chấp nhận được ý kiến, quan điểm hay tín ngưỡng của kẻ khác, mà kết quả là tánh “khó chịu, nhỏ hẹp”. Tu hạnh bao dung là tu “mở rộng vũ trụ quan, mở rộng tầm nhìn, không ngừng khai mở”.

* Tánh hạnh: (Hạnh chân thậttừ bi).

Đức Quan Âmbiệt hiệu là vị “Bồ Tát vô úy”, kẻ làm cho ta hết sợ. Vì sao? Vì ngài chân thật, không dối trá, không bóng tối, không giấu diếm. Bởi thế đối với hạnh Tâm linh, thì chân thật đứng đầu mọi hạnh. Nếu Tâm còn sợ hãi, thì ta sẽ thực hành Hạnh chân thật; thật với lòng, thật với người, với Phật trời, với tánh giác tịch tịnh. Nhưng cẩn thận chớ dùng cách thẳng thắn, chớ dùng tánh thẳng thắn, để làm tổn hại người. Vì rằng, “Nói thật mất lòng” phải lựa lời, lựa lúc, lựa lý, lựa tình mà nói. Vì vậy, tu kèm với hạnh chân thật là hạnh từ bi “Mình lấy tình thương, lòng vị tha làm khởi điểm mọi hành động. Thiếu tình thương, tánh ngay thẳng chưa thể viên mãn. Quá nhiều tình, mà thiếu chân thật; thì cũng không xong! Từ là tánh hiền hòa, diễn đạt bằng lời lẽ và thái độ dịu dàng, bất hại. Bi là tình thương không chiếm hữu, đem an lạc, không đem sợ hãi. Cứu nhưng không sát, giải chứ không kết oán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 640)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 545)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1520)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant