Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quan điểm của Phật giáo về phụ nữ

17 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13227)
Quan điểm của Phật giáo về phụ nữ

QUAN ĐIM CA PHT GIÁO V PH N
Như Hạnh

Bình đẳng giới tính (sexual equality) và nữ quyền thuộc về những vấn đề quan trọng nhất của thời đại mới. Trong đa số các nền văn hóa (không cứ là văn hóa Đông phương) giới chịu các bất công trong những bất bình đẳng về giới tính thường là nữ giới. Do đó tranh đấu về bình đẳng giới tính thường là đồng nghĩa với tranh đấu cho nữ quyền. 

Bình đẳng về giới tính một cách tổng quát xoay chung quanh các vấn đề chính mà tôn giáo cũng có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp như: khái niệm về đàn ông và đàn bà và khả năng tâm linh của họ; quyền được học hỏithực hành các giáo lý; cơ hội về các vai trò trong tổ chức; địa vị, sự kính trọng, và quyền hành trong gia đình; bình đẳng trong các vấn đề luật pháp như ly dị; quyền được hưởng những phương tiện giáo dục; quyền được theo đuổi nghề nghiệp; quyền lợi chính trị, vân vân.

Như đã đề cập khái niệm của tôn giáo về bản tính của người đàn ông và nhất là người đàn bà có rất nhiều ảnh hưởng đối với tình trạng hiện thực của người phụ nữ trong đời sống tôn giáoxã hội. Ngày nay vì ưu thế của văn minh Tây phương, đa số mọi người (kể cả người Đông phương) nuôi dưỡng những thái độ rất nông cạn về văn hóatôn giáo Đông phương. Một trong những thái độ này là tôn giáovăn hóa Đông phương "đè nén" phụ nữ. Văn hóatôn giáo Tây phương trái lại chấp nhận bình đẳng giới tính. 

Thật ra thì "đè nén" phụ nữ hầu như là một đặc tính chung của văn hóa nhân loại. Cũng đúng thật rằng phong trào nữ quyền là một hiện tượng mới và bắt nguồn ở Tây phương. Điều này chứng tỏ rằng những hạt giống bình đẳng giới tính cũng có hiện diện trong văn hóa tôn giáo và trong tâm thức của người phụ nữ. Nhưng các điều kiện thuận tiện cho tranh đấu nữ quyền phát triển ở Tây phương nhờ ở các thay đổi về mặt trí thức, kinh tế, chính trị, xã hội. Những ai theo dõi vấn đề này đều nhận thấy rằng tranh đấu nữ quyền hiện nay không còn là một hiện tượng thuần túy Tây phương nữạ Những người phụ nữ tự giác (self-conscious) ở khắp các nền văn hóa đã bắt đầu đóng góp đáng kể cho việc xác nhận quyền lợi, phẩm tính, và vai trò tích cực/lãnh đạo của người phụ nữ trong đủ mọi phương diện của đời sống.

Bài viết ngắn này nhắm trình bày một cách tổng quan những thái độ căn bản của truyền thống Phật Giáoliên quan đến các vấn đề then chốt về bình đẳng giới tính và nữ quyền như đã nêu ra ở trên. Phật Giáo có một lịch sử lâu dài hơn hai ngàn năm trăm năm và trải rộng ra trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Cho nên lập trường của Phật Giáo về bất cứ một vấn đề gì cũng hết sức là đa dạng. Nói cách khác, quan điểmthái độ của người Phật tử còn chịu cả ảnh hưởng của các nền văn hóa/tôn giáo trong các quốc giaPhật Giáo có mặt như Ấn Giáo, Nho Giáo, Thiên Chúa Giáo, vân vân.

Đức Phật thuyết giảng suốt gần nửa thế kỷ. Giáo lý của ngài bao gồm các vấn đề từ triết lý, vũ trụ quan, tâm lý học, nhận thức luận, chính trị, xã hội, kinh tế, đạo đức, bình đẳng giới tính vô cùng sâu rộng, vượt qua trí tưởng tượng của một Phật tử Việt Nam bình thường. Để có thể đóng góp một cách thiết thực cho nhân loại, để biến cộng đồng Phật Giáo thành một cộng đồng khả kính, người Phật tử phải có nhiệm vụ tìm hiểu, suy niệm về các khía cạnh phong phú của Phật Pháp cũng như tạo điều kiệnphương tiện để thực hiện những lời dạy của Đức Phật trong đời sống. Phật Giáo không phải chỉ là cúng kiếng cầu phước lễ bái. Thái độ ù lì, thụ động, và giáo điều là những gì hoàn toàn tương phản với Phật Giáo.

Xin trở lại với vấn đề phụ nữ. Sự hiện diện và đóng góp của giới phụ nữ trong cộng đồng Phật Giáo Việt Nam là điều rất hiển nhiên. Trong các sinh hoạt tôn giáo chúng ta thường thấy sự hiện diện của phụ nữ đông đảo hơn là nam giới. Rủi thay, đây lại là một lý do để một số người hạ thấp Phật Giáo. Rất nhiều người nói rằng "đến chùa chán lắm, toàn là đàn bà." Đây là một câu nói sặc mùi kỳ thị giới tính (sexist) cũng như hoàn toàn vô nghĩa lý. Thứ nhất, không bao giờ nghe ai nói "đến chùa chán lắm toàn là đàn ông." Thứ nhì, cái phẩm chất của một tôn giáo tùy thuộc khả năng và đức độ của giới lãnh đạo cùng với trình độ hiểu biết và cách hành sử của các tín đồ của tôn giáo ấy. Phẩm chất của một tôn giáo tuyệt nhiên không phải chỉ được qui định bởi sự tham gia của giới tính. Cũng tựa như giá trị của một trường đại học là ở nơi tài nguyên, thư viện, trường sở, khả năng của ban giảng huấn, và trình độ của sinh viên. Không có bằng cớ khách quan nào chứng minh rằng một trường đại học có nhiều nữ sinh hơn nam sinh là một trường có phẩm chất kém và ngược lại.

Nói chung, hiện nay sự hiện diện của phụ nữ trong các cộng đồng Phật Giáo khắp thế giới rất là hiển nhiên. Những phụ nữ này không chỉ tham gia với tư cách là những tín đồ hay thí chủ mà còn là các tu sĩ và thầy dạy. Nhưng kinh điểntruyền thống Phật Giáo mô tả người phụ nữ ra sao? Trong lúc mà hầu hết các tôn giáo bị xem là có tính cách phụ hệ (patriarchal), lập trường của Phật Giáo như thế nào? Giáo lý Phật Giáo có thể đóng góp những gì cho sự bình đẳng giới tính, cho nữ quyền? 

Phụ nữ trong Ấn Giáo cổ thời:
Phật Giáo khởi thủy trong bối cảnh văn hóa Ấn Giáo. Trên mặt tư tưởng Phật Giáo chia sẻ với Ấn Giáo một số khái niệm nền tảng tuy rằng Đức Phật đưa ra những lối giải thích khác. Điểm dị biệt chính là ở chỗ Đức Phật không chấp nhận những cơ chế nghi lễ căn bản của Ấn Giáo đặt trên nền tảng của hệ thống giai cấp. Điều này cũng đóng góp cho quan điểm của Đức Phật về nhân phẩmvị trí của người phụ nữ. Do đó, muốn hiểu thái độ của Đức Phật về vai trò của người phụ nữ, chúng ta cần có một khái niệm căn bản về vai trò của người phụ nữ trong Ấn Giáo. 

Ấn Giáo cổ thời dựa trên kinh Veda (khoảng 2000-1500 trước công nguyên) là một thế giới quan nhấn mạnh về nghi lễ tế tự. Theo tư liệu có được, chúng ta biết rằng trong các thần linh được thờ phượng có một số nữ thần; và trong số các tác giả của những thánh thi có một số là phụ nữ. Phụ nữ tương đối được kính trọng và được quyền tham dự vào đời sống tâm linh. Nhưng bởi vì Ấn Giáo cổ thời nhấn mạnh vào nghi lễ và tín niệm rằng nghi lễbí quyết kiểm soát vũ trụ, cho nên dần dà (vào khoảng từ 1000-700 trước Công nguyên) xuất hiện những kinh văn với những chỉ dẫn phức tạp về việc thực hành nghi lễ

Sự đào luyện các chuyên viên về nghi lễ càng trở nên cần thiết. Chương trình đào luyện này đòi hỏi nhiều thời gian và ở những trung tâm xa nhà với các chuyên giạ Cho nên chỉ các đàn ông trong giai cấp tu sĩ mới được hưởng đặc quyền này. Một trong các nghi lễ quan trọng nhất của Ấn Giáo là tang lễ. Con trai được xem là thiết yếu trong việc thi hành tang lễ để giúp vong linh người cha đạt được cõi trời. Chính vì thế mà nảy sinh ra các nghi lễ để ngăn chặn việc sinh con gái, bởi vì con gái bị xem như gánh nặng cho gia đình cho đến khi đi lấy chồng --- nhiệm vụ chính yếu của người phụ nữ. Vai trò của người phụ nữ là làm vợ và sinh đẻ (làm mẹ). Người vợ phải hoàn toàn phục tùng chồng và cha mẹ chồng. Mặc dù trong các kinh Upanisads (khoảng 700-200 trước Công nguyên), các kinh thư nhấn mạnh kinh nghiệm huyền bí (mystical) và khổ hạnh, chúng ta thấy có đề cập đến một vài phụ nữ khổ tu, thế nhưng khổ tu vẫn được xem là đặc quyền của nam giới. Một tâm lý thường tình là các nhà khổ hạnh (hầu như của tất cả mọi tôn giáo) đều xem phụ nữ là những "cám dỗ" cần tránh xa. 

Đến khi Phật Giáo và Kỳ-na Giáo (Jainism) xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, như một thành phần của nỗ lực củng cố cơ chế Ấn Giáo, các tu sĩ Ấn Giáo bắt đầu soạn thảo ra các kinh thư (được gọi chung là dharma-sastras, đại khái là các sách về qui luật tôn giáo) qui định đời sống xã hội dựa trên các phép tắc mà họ soạn ra. Do đó, địa vị của phụ nữ càng bị thấp đị Theo những kinh thư kia, nhất là các bộ có ảnh hưởng nhất xuất hiện vào khoảng 100 năm trước Công nguyên, phụ nữ không được phép đọc kinh Veda, không được thi hành nghi lễ hay tế tự ngoại trừ với tư cách phụ trợ cho đàn ông.

Nếu bảo rằng những kinh thư này (hay là Ấn Giáo nói chung) chỉ toàn đưa ra những quan điểm tiêu cựctính cách kỳ thị phụ nữ thì cũng không công bình lắm. (Bởi vì suốt lịch sử Ấn Giáo, cho đến hiện nay, lúc nào cũng có sự hiện diện của các nữ thần và các thầy dạy đạo (guru) phái nữ được tôn sùng bởi các tín đồ thuộc cả nam lẫn nữ giới). Một cách hết sức vắn tắt, các kinh thư này hàm chứa những quan điểm đa dạng về phụ nữ. Chẳng hạn, cũng có nhiều đoạn nhấn mạnh về tầm quan trọng của người phụ nữ trong gia đình, khuyến khích chồng phải kính trọng vợ, các nghi lễ không thể được thi hành hoàn hảo nếu không có sự trợ giúp của người vợ, vân vân. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận định rằng theo quan điểm chung của các kinh thư này thì địa vị của người phụ nữ vẫn hoàn toàn dưới nam giớị Đại khái là người phụ nữ luôn luôn cần được "bảo vệ" bởi cha, chồng, hay con trưởng. Không bao giờ nên để cho người phụ nữ được độc lập. (Ở đây chúng ta không khỏi liên tưởng đến quan niệm "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" của nhà Nho). Nói tóm, các nhiệm vụ của người phụ nữ chỉ là phục dịch chồng và chăm sóc nhà cửa. Người phụ nữ phải luôn luôn vâng lờikính trọng chồng dù là người chồng bê tha hoang đàng. Người đàn ông có quyền ly dị vợ, người phụ nữ lại không hề được phép ly dị chồng. (Đức Phật, trái lại, luôn luôn nhấn mạnh sự hỗ tương. Người vợ có bổn phận đối với chồng. Người chồng cũng có những bổn phận tương đương đối với vợ).

Thái độ của Phật Giáo

Lúc Phật Giáo xuất hiện thì khái niệm nghiệp (karma) đã mang những tầng lớp ý nghĩa đa dạng và sâu đậm hơn là ý nghĩa "hành động nghi lễ" trong Ấn Giáo cổ thời. Một trong ý nghĩa của khái niệm "nghiệp" mà Phật Giáo nhấn mạnhtrách nhiệm cá nhân của con người về hành động của mình. Nói tóm, theo quan điểm của Phật Giáo thì định mệnh của một người sau khi chết (hay trong kiếp sau) là do nơi "nghiệp" (có nghĩa là các hành động có ý chí và các hậu quả của các hành động này, tức là nghiệp riêng) của người ấy cùng với sự trợ lực của các "nghiệp" có tương quan với những người khác (tức là nghiệp chung), chứ không giản dị được qui định bởi sự thực hành tang lễ đặc biệt dựa trên vai trò của con trai trưởng như trong Ấn Giáo cổ thời. Có lẽ phần nào vì quan điểm này (biểu lộ đa dạng trong các nền văn hóa khác nhau) cùng với các dữ kiện kinh tế, xã hội, cho nên đến tận ngày hôm nay đa số người ta vẫn vui mừng khi sinh con trai hơn là con gái, hay là cảm thấy chưa trọn vẹn nếu chưa có con trai.

Từ quan điểm của Phật Giáo cái nhu cầu phải có con trai ít ra không còn là một thiết yếu nghi lễ nữa (Do đó, chúng ta nên lưu ý rằng trong các quốc gia mà phần đông dân số theo Phật Giáo, chẳng hạn như Việt Nam, cái tinh thần trọng con trai hơn con gái có thể được giải thích như sau: một là vì nhu yếu chung của các xã hội nông nghiệp, cần con trai để có nhiều bắp thịt cầy bừa. Hai là ảnh hưởng của Nho Giáo, một thế giới quan chúa trọng nam khinh nữ. Người đàn bà vì lý do gì không biết không sinh được con trai bị xem là một món hàng khiếm khuyết, cũng là cái cớ để ông chồng mừng rỡ đi lấy vợ khác "kiếm đứa con trai". Cái thái độ "phải có con trai" này tuyệt nhiên không quan hệ gì với thế giới quan Phật Giáo cả). Một ví dụ cụ thể trong kinh Phật là khi vua Pasenadi buồn vì vợ ông là hoàng hậu Mallika -- người sau này dẫn dắt chồng vào Phật Giáo -- sinh con gái, Đức Phật đã trách nhà vua rằng buồn phiền vì vợ sinh con gái là một thái độ hết sức sai lầm, bởi vì một người con gái có trí tuệđức hạnh không những không kém mà còn ưu việt hơn con trai.

Nói tóm lại, với sự xuất hiện của Phật Giáo, người phụ nữ được nhiều kính trọng hơn và được xem là những cá nhân (chứ không phải chỉ là những món đồ sở thuộc đàn ông). Họ được nhiều độc lập hơn, tự do hơn để tự theo đuổi nếp sống mà họ lựa chọn. Phật Giáo Nguyên Thủy không xem người phụ nữ giản dị như một công cụ sinh đẻ, và mục tiêu duy nhất của người phụ nữ không phải chỉ là hôn nhân. Người phụ nữ có quyền chọn không lập gia đình (mà người khác không nên dè bỉu) và được quyền trở thành tu sĩ, nghĩa là theo đuổi đời sống tâm linh. Một tập tục của Ấn Giáo là sati, hiện vẫn còn lưu hành trong một số cộng đồng tín đồ, theo đó thì cách hành sử cao thượng nhất của người vợ khi chồng chết là chịu chết theo chồng trên giàn hỏa. Góa phụ không được phép tái giá và bị xem là "điềm gở." Phật Giáo trái lại cho phép góa phụ được tái giá. 

Có một số tôn giáo xem hôn nhân như một nhiệm vụ tôn giáo, một thánh lễ (sacrament). Hôn nhân có nghĩa là người đàn ông và người đàn bà được Thượng Đế kết hợp, cho nên chết sống gì cũng cứ phải ở với nhau. Ly dị là một tội lỗi. Thái độ của Ấn Giáo cũng thế, hôn nhân là một nhiệm vụ tôn giáo, không phải là cơ hội để "lãng mạn." (Ví dụ như đi quân dịch là một nghĩa vụ trong một quốc gia có chiến tranh. Những người đi quân dịch đâu cần thiết phải thật sự yêu nghề lính. Người ta không có quyền viện cớ là không yêu nghề lính để không làm nghĩa vụ này hay là giải ngũ sớm hơn hạn định!) Chính vì thế mà trong xã hội Ấn Độ có cái tập tục hôn nhân được dàn xếp bởi gia đình chứ không phải do hai người liên hệ tự quyết định. (Nếu xem hôn nhân là một nhiệm vụ tôn giáo thì tập tục này chưa hẳn đã là chậm tiến!) 

Phật Giáo xem hôn nhân như một khế ước (contract) giữa người đàn ông và người đàn bà. (Vì thế mà hôn lễ không phải là một nghi lễ tôn giáo trong truyền thống Phật Giáo. Gần đây có một số Phật tử làm hôn lễ trong chùa. Điều này cũng không có gì là sai quấy, nhưng chúng ta phải hiểu rõ lý lẽ đằng sau). Do đó, Phật Giáo tuy không khuyến khích (bởi vì Phật Giáo nhấn mạnh từ bi, tôn trọng sự hài hòa xã hội, hiểu rằng ly dị không phải là một biến cố vui mừng) nhưng cho phép ly dị. Hơn nữa, Phật Giáo còn cho quyền đàn bà ly dị đàn ông. 

IB. Horner, một trong hai vị phụ nữ tiên phong trong việc truyền Phật Giáo qua Tây phương, một người có công lớn với Phật Giáo, tóm lược những điểm chính của quan điểm bình đẳng giới tính trong các kinh điển của Phật Giáo nguyên thủy như sau: 

Đức Phật đạt giác ngộ là vì sự hữu ích cho các tăng, ni, nam cư sĩ, và nữ cư sĩ; ngài đã dạy Pháp cho tất cả bốn nhóm này -- trong thuật ngữ Phật Giáo gọi là "tứ chúng". (Đó là nhìn từ khuôn khổ nội tại của lịch sử Phật Giáo. Từ một viễn cảnh rộng hơn, chúng ta có thể nói rằng Đức Phật đạt giác ngộ vì lợi ích cho chúng sinh thuộc tất cả mọi giới tính, cho cả người xuất gia lẫn người tại gia).

Đức hạnh hay thói xấu của "tứ chúng" có ảnh hưởng tương tự đối với sự tồn tại hay diệt vong của trí tuệtu tập Phật Giáo. Nói cách khác, một vị tăng, ni, nam cư sĩ, hay nữ cư sĩ, có trí tuệ, giới luật, tự tin, thực hành Pháp đều có thể làm rạng rỡ cho cộng đồng Phật Giáọ 

Phụ nữ có cùng những giới hạn và khả năng tâm linh giống như đàn ông.

Ni có thể phát triển tâm linh giống như tăng.

Đức Phật nói rằng mục tiêu của ngài là làm sao cho tăng, ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ hiểu thấu, phân tích, và giải thích Pháp một cách rành mạch

Đức Phật luôn luôn dạy những giáo lý tương tự cho cả đàn ông lẫn đàn bà, đôi khi ngài còn nỗ lực một cách đặc biệt để dạy giới phụ nữ

Đức Phật công nhận rằng phụ nữthể đạt được các thành quả tâm linh caọ Bằng chứng là trong nhóm các tín đồ của Đức Phật có hàng trăm phụ nữ đạt được những thành quả tâm linh khác nhau.

Đức Phật nói rằng đời sống tâm linh thiết lập bởi ngài sẽ không hoàn hảo nếu khôngphụ nữ tu tập giáo pháp

Phụ nữ và việc xuất gia

Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo. Hầu như người Phật tử nào cũng biết nguồn gốc của giáo đoàn ni giới này là từ bà Maha-prajapati Gotami, dì và cũng là kế mẫu của Đức Phật. Sau khi Đức Phật thành đạo, bà Gotami trở thành một trong những đệ tử đầu tiên của ngài. Bà đi theo Đức Phật khắp mọi nơi cần mẫn tu học, nổi tiếng là người có trí tuệđức hạnh rất caọ Có rất đông phụ nữ luôn luôn theo bên cạnh Gotami để học đạọ

Theo kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy thì bà Gotami đến gặp Đức Phật để xin được chấp nhận cho phụ nữ xuất giạ Bà xin ba lần, ba lần đều bị từ chối. Thế rồi Gotami và nhóm phụ nữ theo bà cạo đầu, đắp y vàng để tỏ ý thành khẩnquyết tâm đến xin Đức Phật. Lần này họ gặp cả Ananda, thị giả của Đức Phật. Ananda nói hộ cho Gotami ba lần, lại cũng đều bị từ chối. Ananda thay đổi "chiến thuật" và hỏi Đức Phật rằng nếu phụ nữ xuất gia tu tập những lời của chính Đức Phật dạy, họ có khả năng thành tựu tâm linh hay không. Đức Phật trả lời có và cho phép Gotami và nhóm phụ nữ theo bà được xuất gia trở thành tu sĩ. Đối thoại giữa Ananda và Đức Phật khẳng định một điểm quan trọng là Đức Phật luôn luôn công nhận rằng phụ nữ cũng có khả năng tâm linh chẳng khác gì nam giớị 

Việc Đức Phật thoạt đầu ngần ngại không chấp thuận lời yêu cầu của Gotami không thể được giải thích là ngài có thái độ kỳ thị giới tính. Những lý doĐức Phật từ chối lúc đầu hết sứcphức tạp. Chỉ xin đưa ra một lý do: Đó là 2500 năm trước đây, thuở sơ khởi Đức Phật và các đệ tử của ngài sống như những nhà tu khổ hạnh "không nhà". Lang thang trong rừng, đêm đến ngủ dưới gốc cây. Rừng rú lại đầy dã thúđạo tặc, không thuận lợi lắm cho giới phụ nữ. Kinh điển Phật Giáo còn ghi lại một số trường hợp các vị ni bị đạo tặc hãm hiếp. Một số kinh điển cũng ghi rằng sau khi chấp thuận cho Gotami xuất gia, Đức Phật đặt thêm tám giới luật đặc biệt cho ni giới. Những giới luật này đại khái đặt địa vị của họ dưới tăng giớị Cũng có kinh ghi lại lời "tiên tri" rằng vì có phụ nữ gia nhập giáo đoànPhật Pháp sẽ bị "giảm thọ" mất 500 năm. Trong khuôn khổ của bài viết ngắn này, không tiện đi sâu vào chi tiết, tôi chỉ xin vạch ra rằng đó là những thêm thắt sau này của các tác gia Phật Giáo có đầu óc kỳ thị giới tính.

Tuy rằng Đức Phật không hẳn là nhà sáng lập tôn giáo duy nhất và đầu tiên chấp nhận cho phụ nữ xuất gia, nhưng đó là một hành động rất cách mạng vào thời đó. IB. Horner nhận định rằng những gì mà Đức Phật làm cho giới phụ nữ "rạng rỡ như một ngọn đèn sáng trong lịch sử của tự do". Điều mỉa mai là IB. Horner và giới phụ nữ có đầu óc tiến bộ hôm nay có thể cảm kích hành động của Đức Phật, nhưng truyền thống Ấn Giáo lại chỉ trích ngài là phá hoại trật tự xã hội. Bởi vì theo quan điểm này vai trò cao cả nhất của phụ nữ là làm vợ và làm mẹ. Cho phép phụ nữ độc lập theo đuổi đời sống tâm linh thì còn ai để phục dịch đàn ông, rửa chén, nấu bếp, sinh đẻ?

Trong kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy có bộ Therigatha, ghi lại một số bài thơ, kệ tụng về kinh nghiệm tâm linh của những người phụ nữ Phật Giáo ưu tú đầu tiên. Những bài kệ tụng này vẫn được tụng đọc, nghiên cứu như những gương sáng cho các thế hệ Phật tử đời sau. Những người phụ nữ Phật Giáo đầu tiên này thuộc đủ tầng lớp: Từ những người quí tộc có học, cho đến các nhà tu khổ hạnh, góa phụ, nội trợ, những người bị chồng hất hủi, cho đến cả các kỹ nữ. Mỗi người một kinh nghiệm riêng, mỗi người một hoàn cảnh riêng, một tâm tư riêng, nhưng họ đều chia sẻ một điểm chung: tin nơi Phật Pháp và khả năng tâm linh của chính mình như là người phụ nữ

Vị trí của phụ nữ trong truyền thống Phật Giáo

Những thái độ tích cực căn bản của Phật Giáo về phụ nữ trên thực tế cũng được phản ánh trong các quốc gia Phật Giáo. Trong tất cả các quốc gia Phật Giáo không có sự cách biệt (segregation) giới tính. Trong nhiều tôn giáo lớn hiện nay phụ nữ vẫn không được phép gia nhập tăng lữ giới (priesthood). Trong một số xã hội, phụ nữ thậm chí còn bị cấm không cho vào các nơi thờ phượng. Trong các quốc gia Phật Giáo người phụ nữ có quyền công khai đi lại và tham gia vào mọi sinh hoạt tôn giáoxã hội chứ không bị kiểm soát gò bó chẳng hạn như trong các quốc gia Hồi Giáo. Theo một số bộ luật truyền thống của Tích Lan (một quốc gia Phật Giáo) đàn bà được phép ly dị và lấy chồng sau khi ly dị. Góa phụ cũng được phép tái giá và không có sự kỳ thị đối với góa phụ.

Tuy thế chúng ta cũng không thể chối bỏ được sự hiện diện của các thành tố phụ hệ và thái độ kỳ thị giới tính trong các xã hội Phật Giáo ngày nay. Điều này là bởi vì đặc tính phụ hệ của các xã hộiPhật Giáo du nhập (không có nghĩa là các xã hộiPhật Giáo không du nhập thì không như thế). Đức Phật nói rằng đàn ông và đàn bà bình đẳng. Thế nhưng đa số các xã hội Đông phương vốn phụ hệ cho nên các cộng đồng Phật Giáo của những xứ này cũng bị rập theo khuôn mẫu đó. Do đó, quan điểm triết lý chung của Phật Giáophụ nữ và nam giới là bình đẳng và họ đều có khả năng tâm linh như nhau, trên thực tế vẫn có những kỳ thị giới tính. 

Điều này cho chúng ta thấy rằng lý tưởngthực tại không phải bao giờ cũng đi đôi với nhau. Đức Phật công nhận phụ nữ bình đẳng với nam giới. Thế nhưng trên thực tế, xã hội có cho người phụ nữ quyền bình đẳng hay có đủ điều kiệnphương tiện để người phụ nữ thực hiện lý tưởng này hay không lại là một chuyện khác. Quyền bình đẳng của phụ nữ không phải chỉ giản dị được thực hiện bằng một lập trường triết lý hay tâm linh mà còn tùy thuộc vào những điều kiện xã hội, chính trị, văn hóa, tập tục, và tâm lý con người nữa, và nhất là nỗ lực tích cực hữu thức của người Phật tử. Nói tóm lại, những lý tưởng Phật Giáo không phải tự nhiên được thành tựu (do quyền năng của chư Phật, Bồ-tát) mà phải do chính các Phật tử thực hiện những lý tưởng ấy. Để có thể làm được như thế, người Phật tử phải nỗ lực tạo ra những điều kiệnphương tiện thuận lợị Cũng tựa như những phát minh khoa học, nếu như không hội đủ hoàn cảnh thuận tiện, thiếu những hỗ trợ tài chính, những phát minh ấy cũng chỉ mai một đi trong ngăn tủ của nhà khoa học mà thôi. 

Do đó, tuy rằng Đức Phật cho phụ nữ thụ giới xuất gia hoàn toàn (nghĩa là trở thành tu sĩ). Giáo đoàn ni giới được truyền từ Ấn Độ sang Tích Lan vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Truyền thống này kéo dài khoảng một ngàn năm và trong thời gian này truyền qua Trung Quốc. Nhưng vào khoảng thế kỷ thứ mười hay mười một sau Công nguyên, giáo đoàn ni giới Tích Lan, vì chiến tranh và các rối loạn chính trị, không còn khả năng truyền giới nữa vì không có đủ số ni để làm việc này. Thế rồi cũng không có nỗ lực để tái thiết lập truyền thống này nữa. 

Ngày nay truyền thống truyền giới toàn phần cho phụ nữ chỉ còn ở các xứ theo Phật Giáo Đại Thừa như Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bản, Trung Hoa, và Việt Nam chứ không còn ở các quốc gia theo truyền thống Nguyên Thủy (hay Theravada mà các Phật tử Việt Nam thường gọi một cách không chính xác là "Tiểu Thừa"). Ở các quốc gia này phụ nữ chỉ được thụ giới "bán phần" thôi. Ngay cả ở Tây Tạng, phụ nữ không thể vượt qua được giai đoạn "tập sự" (thuật ngữ Phật Giáo gọi là sa-di ni).

Một số phụ nữ ở các quốc gia này thường lý luận rằng họ chỉ muốn trở thành Phật tử chứ không cần phảiphụ nữ Phật tử. Vấn đề bình đẳng hay giới tính hoàn toàn không liên hệ gì đến sự thành tựu tâm linh. Họ chỉ quan tâm đến tâm linh chứ không tranh giành "bình đẳng" hay địa vị gì cả. Lý luận này thoạt nghe có vẻ như bày tỏ một thái độ không chấp trước. Phân tích kỹ chúng ta sẽ thấy nó không không vững vì những lý do như sau: 

Một là trên thực tế vẫn có rất nhiều phụ nữ muốn được thụ giới xuất gia làm ni. Lối suy nghĩ của những phụ nữ này hết sứcchính xác, bởi vì một giáo đoàn Phật Giáo mà thiếu sự hiện diện của phụ nữ là một giáo đoàn không thể hiện được một xã hội bao gồm cả "tứ chúng" như lý tưởngĐức Phật đề ra. Hai là lý luận trên biểu lộ một thứ thái độ chịu đựng tiêu cực kết quả của một tâm thức bị đè nén. Phụ nữ trong một số cộng đồng Phật Giáo kể cả cộng đồng Phật Giáo Việt Nam thường được khuyến khích nuôi dưỡng những hình ảnh tiêu cực về chính mình. Đại khái như sinh ra là đàn bà là kết quả của những nghiệp xấu. Lối tu tập duy nhất dành cho đàn bà là tụng niệm, cầu xin, chịu đựng, phục dịch, để hi vọng kiếp sau được sinh làm đàn ông.

Nhưng như chúng ta đã thấy, người phụ nữ bị đè nén, kỳ thị, và luôn luôn phải chịu đựng những thiệt thòihậu quả của những khía cạnh chậm tiến bất công của một số xã hội Đông phương. Chúng ta không thể dùng triết lý Phật Giáo ra để biện bạch hay chấp nhận tệ trạng này. Điều may mắnđa số các phụ nữ hiện thời, nhất là các phụ nữ Tây phương theo Phật Giáo (đa sốgiáo dục cao), hiển nhiên không chấp nhận nuôi dưỡng những hình ảnh tiêu cực về người phụ nữ. Trái lại, họ tiếp tục tìm hiểu, giải thích quan điểm Phật Giáo về phụ nữ và tạo điều kiện để thực hiện quan điểm này trong đời sống. Điều này chứng tỏ như Đức Phật đã nói những người Phật tửtrí tuệ, giới luật, tự tin làm rạng rỡ cho Phật Giáọ Chúng ta có thể nói thêm rằng, ngược lại những người Phật tử thụ động, thủ cựu, bạc nhược chỉ làm cho Phật Giáo chậm tiến thôi. 

Những nghiên cứu về Phật Giáo hiện đại cho thấy rằng trên toàn thế giới, giới phụ nữ trong Phật Giáo (cả tu sĩ lẫn cư sĩ) không còn cam tâm chấp nhận những bất công nữa. Họ tham gia tích cực vào nhiều phạm vi sinh hoạt. Sự đóng góp của họ nằm trên mọi lãnh vực từ học thuật, tu tập cho đến các họat động xã hộị Họ không ngừng khai phá lại xác định lại vai trò của người phụ nữ trong Phật Giáo. Họ không hài lòng chỉ làm những người đi theo mà còn đảm nhận cả vai trò lãnh đạo. Họ đã đem lại những thay đổi cho nhiều thái độ và lối suy nghĩ.

Kết Luận

Nếu như chúng ta có thể dùng một loại suy, như đã sử dụng ở trên, một cộng đồng tôn giáo cũng như một đại học. Người Phật tử Việt Nam thử đặt câu hỏi là chúng ta có thư viện phong phú không? ban giảng huấn có khả năng không? trình độ sinh viên có cao không? Quan sát những thực tại Phật Giáo Việt Nam khó lòng cho phép chúng ta trả lời là có. 

Không thể nói là trong giới phụ nữ Phật Giáo Việt Nam không có người có học cao. Nhưng mà khi quay về Phật Giáo thì, cũng y như nam giới, đa số không có ý chí tìm hiểu để vượt qua một vài khái niệm lỗi thời giam nhốt Phật Giáo vào trong một mớ nghi lễ mòn mỏi. Tệ hại nhất là ngay cả những phụ nữ có học và độc lập cũng chấp nhận những những hình ảnh rất tiêu cực về phụ nữ. Nhiều người thậm chí còn xem việc khinh thường vị trí và thân xác đàn bà là một đức hạnh

Những thái độ trên chỉ là hậu quả của sự hiểu biết hạn hẹp, thiếu sót về Phật Giáo của chính những Phật tử. (Đề tài này sẽ được phân tích trong những bài viết khác). Cộng đồng Phật Giáo Việt Nam cần tạo điều kiện để huấn luyện cho người phụ nữ hiểu thêm về Phật Giáo cũng như vai trò và tiềm năng của họ như những người phụ nữ Phật Giáo.

Trong số những phụ nữ đang đóng góp rất tích cực trong các cộng đồng Phật Giáo thế giới hiện nay bao gồm các phụ nữ thuộc rất nhiều quốc gia từ Đông sang Tây. Có điều đáng tiếc là hình như chưa thấy có người nào thuộc cộng đồng phụ nữ Phật tử Việt Nam cả.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5200)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2671)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6147)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3063)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3110)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3311)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3245)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3306)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4562)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5218)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3875)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3847)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3211)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4143)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5050)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3519)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6749)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3970)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3224)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3105)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2967)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5870)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4638)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3502)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2902)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3314)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4431)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5725)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6642)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3729)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4541)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4614)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3978)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3411)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4633)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6060)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5848)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3641)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4692)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4463)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4532)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4273)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4601)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8223)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3927)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5726)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5208)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6853)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6182)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5998)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5808)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6300)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6791)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4978)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5575)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6397)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3793)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5426)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant