Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

02. Chùa Cổ Hà Nội

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12478)
02. Chùa Cổ Hà Nội

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG III
NHỮNG NGÔI CHÙA C
TIÊU BIỂU CHO NỀN VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC TẠI HÀ NỘI

Trong dịp tôi về thăm lại Hà Nội quê tôi, có đến vãng cảnh một số chùa cổ ở Hà Nội, mà tôi tạm ghi ra đây 5 ngôi cổ tự tiêu biểu cho nền văn hóa Phật Giáo đã gắn liền với Văn Hóa dân tộc, để cống hiến quý độc giả cùng quán tưởng về cố đô văn vật ngàn xưa nay vẫn còn đó.

1.- CHÙA MỘT CỘT:

Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, tiêu biểu cho nền văn hóa Phật Giáo đã gắn liền với nền văn hóa dân tộc từ lâu đời, đó là một ngôi Chùa Một Cột, kiến trúc độc đáo nhất, đã được xây dựng từ năm Kỷ-Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo 1, (1409) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái Tông (1028-1054), chiêm bao thấy Phật Bà Quan Âm trên Tòa Sen, đưa tay dắt Vua lên Toà. Khi Tỉnh dậy, vua kể lại cho các quan nghe, có người cho là điềm không lành. Sư Thiên Tuế khuyên nhà Vua làm Chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm Tòa Sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng. Chùa xây xong, đài sen nghìn cánh đỡ Tòa Phật sắc hồng, trong đặt tượng Phật vàng lấp lánh, các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh Chùa niệm Phật cầu chúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên là chùa Diên Hựu.

blankChùa Diên Hựu, người ta thường gọi là Chùa Một Cột, Chùa nằm trên đất thôn Thanh Bảo, Huyện Quảng Đức, phía Tây Hoàng Thành, Thăng Long thời Lý, nay thuộc phố Chùa Một Cột, Quận Ba Đình, Hà Nội. Theo văn bia dựng năm Cảnh Trị 3 do Hoà Thượng Lê Tất Đạt ghi, Chùa được dựng từ thời thuộc Đường: “Năm đầu niên hiệu Hàm Thông thời Đường…”, dựng một cột đá ở giữa hồ, trên cột xây một tòa lầu ngọc, trong đó đặt tượng PhậtQuan Âm để thờ cúng. Khi đất Chùa anh linh, cầu gì được nấy, đến khi triều Lý xây dựng Kinh Đô ở đây, cũng noi theo dấu cũ, nên càng linh thiêng. Khi Lý Thánh Tông chưa có hoàng tử, thường đến đó cầu nguyện. Một đêm nằm mộng thấy Phật Quan Âm mời lên trên lầu, ôm một đứa bé đặt vào lòng Vua. Tháng đó Hoàng Hậu có mang Hoàng Tử, vua bèn sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải Chùa Một Cột để mở rộng việc thờ cúng

Đời Lý Nhân Tông, năm Anh Vũ Chiêu tháng 5 (1080). Vua cho đúc chuông lớn treo ở chùa gọi là: “Giác Thế Chung” (chuông thức tỉnh người đời) và một tòa phương đinh bằng đá xanh cao 8 trượng, nhưng vì chuông quá nặng không sao treo lên được, phải để dưới đất nên đánh không kêu. Chỗ ruộng để chuông thấp, có nhiều rùa đến ở, được gọi là ruộng Quy Điền. Khi quân Minh bị bao vây ở Đông Quan, hết quân khí, Vương Thông đã cho phá quả chuông này để đúc súng đạn. 

Quy mô Chùa Một Cột vào thế kỷ 12 to lớn lộng lẫy hơn như hiện nay rất nhiều. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh chùa Long Đọi (Nam Hà), dựng năm 1121, mười sáu năm sau khi chùa mới hoàn thành, cung cấp cho ta hình ảnh chân thực nhất về ngôi Chùa Một Cột thời Lý: “Lòng sùng kính Đức Phật, dốc lòng mộ đạo nhân quả, hướng về vườn Tây Cầm nổi danh, xây ngôi chùa Diên Hựu”. Theo dấu vết chùa cũ cùng với ý mới của nhà Vua (Lý Nhân Tông). Sáng đào hồ thơm Linh Chiếu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đóa hoa sen nghìn cánh, trên bông sen đứng vững tòa điện màu xanh, trong điện đặt pho tượng vàng nhân đức, vòng quanh hồ là hai dẫy hành lang; lại đào ao Bích Trì mỗi bên đều bắc cầu vồng để đi qua. Phía sân cầu đàng trước hai bên tả hữu, xây bảo tháp Lưu Ly.

“Hàng tháng vào sớm ngày mồng một (ngày sóc), hàng năm vào dịp du xuân, nhà Vua ngồi xe ngọc, đến Chùa mở tiệc chay, làm lễ dâng hương hoa, cầu cho ngôi báu lâu dài, bày chậu thau làm lễ tắm tượng Phật. Trang sức pho tượng tinh tế, biểu lộ tướng mạo của năm loại chúng sinh”.

Qua văn bia miêu tả, rõ ràng Liên Hoa Đài thời Lý to hơn chùa ngày nay nhiều. Chùa thời Trần cũng không phải là ngôi chùa thời Lý nữa. Như sách toàn thư đã ghi lại, năm 1249 mùa Xuân, tháng Giêng, sửa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ”. Chùa đã qua nhiều đợt tu sửa. Đợt tu sửa lớn vào năm Thiên Ứng Chính Binh 18 (1249) gần như phải làm lại toàn bộ. Thời Lê, triều đình nhiều lần cho tu sửa, thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá.

Năm 1838, Tổng Đốc Hà Ninh Đặng Văn Hòa, tổ chức quyên góp thập phương sửa chữa điện đường, hành lang tả hữu, gác chuông và cửa tam quan. Năm 1852, bố chánh Tôn Thất Giao xin đúc chuông mới. Năm 1864, Tổng Đốc Tôn Thất Hàm hưng công trùng tu, làm sàn gỗ hình bát giác để đỡ toà sen trạm trổ thêm công phu tráng lệ. Năm 1954, trước khi rút khỏi Hà Nội, quân pháp đã đặt mìn phá sập chùa. Sau ngày tiếp quản thủ đô, Bộ Văn Hóa đã cho tu sửa chùa Một Cột theo đúng kiểu mẫu cũ để lại từ thời Nguyễn.

Tòa Đài Sen (Liên Hoa Đài) ta quen gọi là Chùa Một Cột, có hình vuông mỗi chiều 3m, mái cong dựng trên cột đá hình trụ cao 4m, (chưa kể phần chìm dưới đất), có đường kính là 1,2m. Trụ đá gồm hai khối, gắn rất khéo, thoạt nhìn như một khối đá liền. Sự độc đáo của kiến trúc Chùa Một Cộttoàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá. Ở đây có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ bằng hệ thống móng giằng, đặc biệtsử dụng các hệ thống cột chống chéo lớn từ cột đến sàn, vừa tạo thế vững chắc, vừa mang lại hiệu quả thẩm mỹ, như đường lượn của cánh sen, thiết lập sự hài hòa giữa mái và sàn, rất đối xứng

Ngôi Chùa nằm giữa cái hồ (ao) hình vuông, phía dưới có thể là biểu tượng cho đất (trời tròn, đất vuông), sự tích bánh dầy bánh chưng. Ngôi chùa như vươn lên cái ý niệm cao cả: "Lòng nhân ái soi tỏ thế gian”. Khối kiến trúc gỗ đá được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh lịch. Cảm giác thanh cao của kiến trúc như chia sẻ, hòa đồng với trời nước, và màu xanh của cây lá khiến con người giũ sạch ưu phiền, đạt tới sự trong sáng của tâm hồn như nhà sư Huyền Quang (1254-1334) dưới thời Trần đã viết:

Vạn duyên bất nhiễu thành dã tục
Bán điểm vô ưu, nhân phóng khoang.

Tạm dịch:

Mối duyên chẳng bợn, ngăn lòng tục,
Phiền nhiễu khuấy lâng, rộng nhân quang.

2.- CHÙA TRẤN QUỐC:

blankBây giờ xin quý độc giả hãy cùng tôi đến thăm Chùa Trấn Quốc, là một trong những ngôi Chùa Cổ danh thắng, phong cảnh tuyệt đẹp, vị trí tại phía Bắc và cách trung tâm Thủ Đô Hà Nội hiện nay, hơn 2 cây số theo đường chim bay, thuộc địa phận Phường Yên Phụ, Quận Tây Hồ, (quận Ba Đình hiện nay) Hà Nội.

Đây là một ngôi chùa cổ nhất tại Hà Nội ở nước ta, chùa được xây dựng từ năm Lý Nam Đế (541-548), trên một khu đất diện tích khoảng 3 sào Bắc bộ, tọa lạc tại mặt Hồ Tây là hồ lớn nhất của Thủ Đô Hà Nội. Chung quanh toàn nước hồ bao bọc, phía Nam có đường Cổ Ngư, hay Cổ Ngự cũ (nay là đường Thanh Niên và Hồ Trúc Bạch, có đường đi thông từ đường Cổ Ngư, (đường thanh Niên) vào tới Chùa. Từ xưa nhân dân quanh vùng gọi dải đất này là bãi “Cá Vàng”. Trên mặt đất, ngoài diện tích thổ cư là vườn trồng trọt, có các cây cổ thụ rậm rạp, khác nào một cảnh Lâm Tuyền

Diễn tiến tên của ngôi Chùa Trấn Quốc như sau: Lúc khởi đầu lấy tên chùa là chùa Khai Quốc, (theo tài liệu của vụ bảo tàng, bảo tồn cho biết “Tháng hai, năm hội phong thứ 5, (1096 Lý Nhân Tôn) bà Thái Hậu Ỷ Lan có mở tiệc cỗ chay ở chùa Khai Quốc, để thiết đãi các vị Cao Tăng và hỏi nguyên lai đạo Phật truyền vào nước Đại Việt”. Thời kỳ nhiếp chính, bà Ỷ Lan cũng thể hiện tinh thần thành khẩnPhật Pháp, Bà Ỷ Lan thường lui tới chùa cùng chư Tăng đàm đạo.

Năm Lê Đại Bảo (1440 - Thái Tôn), đổi hiệu chùa là An Quốc. Từ thời đó trở về trước ngôi chùa này vẫn nguyên vị ở bãi sông Hồng, tại phía đông Bắc phường Yên Hoa, tức Yên Phụ ngày nay. Đến đời hậu Lê Kính Tôn, niên hiệu Hoàng Định năm thứ 16 (Bính Thìn 1616), thấy ở đấy thường hay bị lở vì nước sông hàng năm lên to, nên nhân dân bản Phường phải chuyển Chùa vào bãi Cá Vàng này. Năm Lê Vĩnh Tộ thứ 6,(1624 - Thần Tôn) và năm Dương Hòa thứ 5, (1639 - Thần Tôn), dân sở tại kiến thiết Tòa Tam Bảo, hai dãy hành lang và nhà Tổ rất nguy nga tráng lệ. Theo sách báo lưu truyền, thì ngôi Tam Quan của Chùa là Chúa Trịnh (Thanh đô vương Trịnh Tráng) xây dựng cùng năm 1639 kể trên.

Sở dĩ có tên Trấn Quốc là trên dải đất này, đời Lý (Lý Bát Điệp 1010-1225), đã dựng cung Thúy Hoa. Đời Trần 1225-1400) đổi gọi là điện Hàm Nguyên. Thời Lê-Trịnh cũng đặt hành cung liền đó. Khi ấy cung điện của Lý Trần đã đổ nát nhân dân liền dựng lại ngôi chùa nên nền đất cũ đó mà gọi là Chùa Trấn Quốc. (Theo Thăng Long cổ tích, tuyển tập văn hóa Hà Nội, báo độc lập cũng nói, tên Chùa Trấn Quốc đã có từ thời Lý-Trần). Kế tiếp lại đắp con đường nối liền từ đường Cổ Ngư (nay đổi tên là đường Thanh Niên) vào Chùa. (năm 1620). 

Sau đó xuất hiện những câu ca dao:
Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Trấn Quốc, canh gà thọ xương.

(Báo Thủ Đô Hà Nội trang 13). (Trong quận Ba Đình có phần đất của huyện Thọ Xương cũ).

Cũng theo tư liệu tôi ghi lại hiện lưu tại chùa hiện nay được biết, những vị Cao Tăngdanh nhân thời xưa, như Đức Vân Phong pháp sư (đời thứ ba dòng Vô Ngôn Thông), Khuông Việt Thái Sư Ngô Chân Lưu, Thảo Đường (vị sư tổ này khai sáng phái Thiền Thảo ĐườngViệt Nam), Thông Biện, Viên Học, Tịnh Không, Trần Tú Uyên cùng nhiều bậc Hòa Thượng danh đức khác, đều thụ giáotu trì ở chùa này. Năm 580, vị Phạm Tăng Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi từ Ấn Độ qua đây, rồi mới đến trụ trì chùa Pháp Vân thuộc Tỉnh Hà Bắc.

Chùa Trấn Quốc còn là một nơi chốn tổ của một chi sơn môn trong phái Thiền Tào Động truyền ở Việt Nam, đời Hậu Lê do vị Tính Trí Giác Quan thuyền sư khai hóa, lần lượt qua 12 đời sư tổ truyền đăng. Hiện có những tòa tháp xá lợi của chư vị tiền bối tu hành để lại tại chùa. Khi các du khách bước vào cổng Chùa nhìn ngay thấy hai đôi câu đối nôm ở hai hàng cột trụ cổng ghi như sau:

Vang tai xe ngựa qua đường tục.
Mở mặt non sông tới cửa thuyền.

Gặp nạn binh hỏa cuối thế kỷ 18, chùa đã từng bị hoang phế, sau được nhân dân cùng vị Hòa Thượng bản tự Pháp Danh Khoan Nhân phát tâm tu sửa lại. Đời Nguyễn, Vua Thiệu Trị lên ngôi năm thứ hai (Nhâm Dần - 1842) đi Bắc tuần đến thăm chùa, đổi hiệu chùa là Trấn Bắc Tự, nhưng nhân dân vẫn cứ thường gọi là Trấn Quốc. Các du khách khi bước chân vào cửa chùa thấy ngay hai câu đối nôm:

Trải bao phen gió Á mưa Âu, trơ đá vững đồng. Chót vót cột trời chùa Trấn Quốc
Riêng một thú hoa đàm đuốc tuệ, sớm chuông, chiều trống, thênh thang cửa Phật Cánh Tây Hồ”

Ngay khi ấy có bài thơ, nói rằng của Vua Thiệu Trị làm mà hai câu đầu vẫn gọi tên là chùa Trấn Quốc:

Trung lập càn khôn, vững đế đô,
Mệnh danh Trấn Quốc, giữa Tây Hồ.

blankChùa Trấn Quốc là một danh lam thắng cảnh, một di tích văn hóa của thủ đô và cả nước. Trước khi đi tham quan cảnh Chùa tôi đã đến đảnh lễ Hoà Thượng Kim Cương Tử hiện ngài đang chủ trì tại đây, người nhỏ nhắn lúc nào cũng nở nụ cười trên môi với nét mặt khoan dung, hiền hòa biểu lộ của một vị cao tăng mà ai khi mới gặp cũng phải kính nể.

Trước chánh điện tôi thấy có cây Bồ Đề thật to lớn, theo sự hướng dẫn của vị sư trong chùa cho biết thì đây là một cây Bồ Đề do Tổng Thống Ấn Độ Pơ-ra-sát, sang thăm Việt Nam, thân hành mang tặng cây Bồ Đề, lấy ở cây mà trước đây hơn 25 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca ngồi tu thành đạo, trồng kỷ niệm tại vườn trước cửa chùa, đến nay cây đã trở thành cây cổ thụ trong Chùa, cành lá xanh tốt, bao bọc cả một khu vườn rợp mát.

Chùa Trấn Quốc là cảnh đẹp của Hồ Tây, “Lên cao ngắm cảnh, mây nước mênh mông, nước hồ óng ánh trong suốt khiến lòng người thanh thoát và nhẹ nhàng, tâm hồn thanh tịnh, khi đến vãng cảnh chùa, tiếng chuông chùa gọi tỉnh mộng trần tục... Tấm bia rêu phong còn đó, lối xưa cỏ nay đâu? Ngày tháng là bao, bỗng trở thành dấu cũ, khiến cho con người chạnh lòng cảm khái với cảnh vật xưa nay”, (Văn bia 1815).

3.- CHÙA QUÁN SỨ:

blankTôi đến vãng cảnh chùa Quán Sứ vào lúc 10 giờ sáng, trước cổng tam quan, có rất nhiều người bán hàng rong, nào là trái cây, hương hoa, giấy tiền, vàng mã, các bánh đủ loại, người ra vào tấp nập, tôi đứng ngoài quay phim và chụp hình quang cảnh Chùa, xong tôi tiến vào trong chánh điện lễ Phật. Cảnh tượng thật nhộn nhịp, kẻ ra người vào, nam nữ Phật Tử kẻ đội lễ người thắp hương khấn vái làm lễ trước chánh điện, vì nay là ngày rằm tháng hai ta, đầu năm nên mọi người vào chùa lễ Phật cầu xin cũng chật chánh điện, điều làm tôi chú ý đến là đa số thanh niên nam nữ, các cụ bô lão cũng có, nhưng ít hơn. Quang cảnh sinh hoạt trong chùa khá đông đúc.

blankTôi ra ngoài quanh xuống nhà sau đến thăm Hòa Thượng viện chủ, Thích Tâm Tĩnh năm nay ngài 82 tuổi, (1998) ngài tiếp tôi trong căn phòng chật hẹp thiếu tiện nghi, sau khi thăm hỏi ít câu xã giaocúng dường ngài, tôi trở ra quan sát quang cảnh chùa, đang nhộn nhịp xây cất lại ngôi nhà hai tầng bên tay trái chánh điện, bên tay phải là một thư viện và giảng đường, phía sau chánh điện là khu nhà trai đường và lưu trú tăng sinh, vì nơi đây hiện đang đào tạo lớp cao cấp Phật Học.

Chùa Quán Sứ hiện tọa lạc tại số 73 phố Quán Sứ, Quận Hoàn kiếm Hà Nội. Theo sự tìm hiểu của tôi lịch sử ngôi chùa như sau: Vào thời Trần Dụ Tông (1341-1369) ở cạnh khu vực này có nhà công quán của triều đình dùng để đón tiếp sứ giả của các nước ngoài như Chiêm Thành, Vạn Tượng, Nam Chưởng, (Lào và Bắc Lào hiện nay), các sứ thần đều theo đạo Phật, nên ở cạnh công quán có lập một ngôi chùa để các sứ thần đến lễ Phật, vì thế nên Chùa có tên là Chùa Quán Sứ, về sau nhà công quán bị hủy bỏ, nhưng ngôi chùa vẫn còn được giữ lại.

Trong Chùa ở tiền đường thờ Phật, Hậu đường thờ Quốc Sư Triều Lý là thiền sư Không Lộ. Chùa có 12 bia đá, theo bia “Quán sứ tự công đức bi ký” dựng năm Ất Mão (1855), do tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1838), đốc học Thanh Hóa, Lê Huy Vĩnh soạn thì: Vào đầu triều Gia Long, quân lính đóng ở đồn Hậu Quân ở cạnh Chùa, nhờ có phó tướng Vĩnh Tài lưu tâm đến đạo Phật, nên chùa không bị phá hủy. Đến năm 1822, chùa được sửa sang làm chỗ lễ bái, cầu đạo cho quân nhân. Sau lính rút đi, khu đất trống được trả lại cho dân làng sở tại. Nhà Sư Thanh Hướng đến trụ trì, làm hành lang đúc tượng, đúc chuông. Học trò là Văn Nghiêm kế nghiệp, khuyến hóa mười phương, tu bổ những chỗ hư hỏng, tô tượng và đắp thêm 27 pho tượng nữa.

Đến năm 1934, hội Phật Giáo Bắc kỳ lấy chùa làm hội quán. Năm 1942, Chùa được xây lại theo quy mô kiến trúc và trang trí nội thất như hiện nay. Năm 1958 Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam được thành lập, đã lấy chùa Quán Sứ làm trụ sở.

4.- CHÙA LÝ QUỐC SƯ:

Tôi đến thăm Chùa Lý Quốc Sư, hiện đang thờ Thiền Sư Không Lộ, mặc dầu là một ngôi cổ tự, đã được xây cất từ năm 1131, theo lệnh của Vua Lý, để làm nơi tu hành cho các nhà sư ở cạnh chùa Bảo Thiên và gọi là: “Lý Quốc Sư Tự”. Chùa hiện tọa lạc tại số nhà 50 phố Lý Quốc Sư, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nơi đây trước kia thuộc thôn Tiên Thi, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, kinh thành Thăng Long.

Ngôi Chùa đã và đang được tu bổ tương đối khang trang. Chùa thờ Phật có nhiều tượng Phật, được tạo tác có phong cách nghệ thuật. Đời Lê đáng chú ý là nhóm tượng “Long Nữ Thiện Tài”, được tạc bằng đá trên cột cao 3m, có trang trí các hoa sen, hoa cúc dây, hoa thị, lá đề... vòng quanh cột, nhóm tượng có cấu trúc khác lạ, tượng tròn cân đối, mang dấu ấn phong cách nghệ thuật thế kỷ thứ 18.

Bên cạnh các tượng Phật là tượng Nhân Thần, có tượng Thiền Sư Minh Không, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh, cũng có cả tượng cha mẹ Từ Đạo Hạnh, những tượng này đều có phong cách nghệ thuật từ thế kỷ thứ 18, 19. Do vừa thờ Phật vừa thờ Nhân Thần, nên Chùa Lý Quốc Sư, đã thể hiện khá rõ tín ngưỡng của người dân kinh thành Thăng Long.

5.- CHÙA BÀ ĐÁLINH QUANG TỰ:

blankTôi cũng đã đến vãng cảnh chùa Bà Đá, nhân dịp này tôi xin ghi lại đây di tích lịch sử của ngôi chùa Cổ đã tiêu biểu cho nền văn hóa dân tộc Việt, xin quý độc giả hãy cùng tôi tìm hiểu: “Tại sao gọi là chùa Bà Đá? và Tại sao lại gọi Linh Quang Tự?”.

a.- LỊCH SỬ KIẾN TẠO NGÔI CHÙA

Chùa Bà Đá hiện nay tọa lạc tại số 3 Phố Nhà Thờ, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trước kia nơi này gọi thôn Tiên Thị (còn gọi thôn Tự Tháp hay Bảo Thiên Tự Tháp, thôn Hương Nghĩa), thuộc phường Bảo Thiên, Tổng Tiên Túc, Huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, Kinh Đô Thăng Long. Trong một tấm bia của chùa lại ghi “thuộc Tổng Thuận Mỹ, Huyện Thọ Xương, Phủ Hoài Đức Hà Nội”. Ngôi chùa thì vẫn nguyên vị trí tại một khu vực gần hồ Hoàn Kiếm, danh tiếng của Thủ Đô Việt Nam.

Theo những bia bảng, thuyền phả và khoa giáo lưu truyền lại, thì chùa này khởi đầu gọi là chùa Sùng Khánh, khai sáng từ năm Bính Thân (1056), niên hiệu Long Thụy Thái Bình năm thứ 3, đời Vua Lý Thánh Tôn, (Vua thứ 3 triều đại nhà Lý Bát Điệp).

Sau khi xây dựng chùa xong liền đúc quả chuông đồng rất lớn, tiếp đó thì Toà Tháp Bảo Thiên vĩ đại dựng lên cao ngất gần đất chùa (nơi xây tháp này thành chùa Bảo Thiên). Chùa Bà Đá trước và sau trải bao phen tang thương biến đổi, bị chiến tranh xâm lược tàn phá nhiều lần, nên các thứ kiến tạo quy mô nói trên, đều đã mất hết từ lâu.

Trong khoảng thời gian niên hiệu Hồng Đức, Canh Dần 1470-1498 Mậu Ngọ) đời vua Lê Thánh Tôn, chùa chỉ còn là một ngôi am tranh. Khi nhân dân khai móng xây tường làm Chùa, bỗng thấy một pho tượng bằng đá hình dáng phụ nữ, dân chúng cho là Thánh Giáng, liền đưa lên thiết lập bàn thờ, xây chùa ngói để phụng sự, pho tượng này sau bị mai một.

Đến thời kỳ cuối đời Lê Trịnh (Hiến Tôn – Trịnh Sâm 1767-1782). Khi đào đất xây tường làm lại ngôi chùa, hễ bức tường xây lên thì lại bị đổ, đào sâu xuống nữa, thì thấy pho tượng đá xuất hiện ra, như vậy người ra cho rằng: Tượng này linh thiêng. Sau khi hoàn thành công việc tu tạo thờ phượng, thập phương kéo đến lễ bái ngày càng đông đúc. Từ đấy có tên gọi là Chùa Bà Đá.

Lại đến năm Bính Ngọ (1786), Quân Mãn Thanh phá hủy ác liệt trước khi quân Vua Quang Trung tiến vào thành Thăng Long. Ngôi Chùa Bà Đá bị tiêu thổ, đất chùa bỏ hoang một thời gian.

Trước kia phạm vi đất đai tự viện rất rộng, thừa dịp hoang phế người ra lấn chiếm mất nhiều, chỉ còn lại một khoảnh đất nhỏ. Viên quan địa phương ra sức cho dân sở tại dọn sạch khu đất còn lại đó, thì lại tìm thấy pho tượng đá cũ chìm ngập dưới đất chỗ đống tro tàn, mà vẫn còn nguyên vẹn, nhân dân vui mừng, khởi tấm lòng thành tín, người hằng tâm, người hằng sản, gom góp nhau cất lại ngôi chùa nhỏ mới và sự sùng bái lại thịnh vượng hơn xưa.

Năm Cảnh Thịnh nguyên niên (Quý Sửu – 1793). Tín đồ bản tự thỉnh được một vị cao tăngHòa Thượng Khoan Giai, từ Sơn Môn Hồng Phúc về chứng cảnh, xây dựng chùa ngói tố hảo, đặt hiệu chùa là Linh Quang Tự.

Từ đấy về sau, qua nhiều lần mở mang, trùng tu, trùng tạo, trở thành cảnh già lam đồ sộ như ngày nay.

b.- ĐẠO MẠCH LƯU TRUYỀN

Cả một thời gian dài đăng đẳng, trải dài 737 năm trước năm 1793, không thấy nói có vị sư nào Trụ trì chùa này, như vậy Hòa Thượng Khoan Giai tức là vị sư tổ chùa Linh Quang (Bà Đá). Vậy Ngài Khoan Giai vốn là vị thứ V và là đệ tử sư tổ Bản Lai Tính Chúc, Đạo Chu Thuyền Sư, Tổ thứ IV phái Thuyền Tào Động, ở chốn Tổ Hồng Phúc (Chùa Hoè Nhai) Hà Nội. Kể từ vị thủy tổ khai tôn là Đức Thủy Nguyệt thuyền sư (cuối thế kỷ thứ XVI) trở xuống.

Về lịch đại truyền đăng chùa Linh Quang, đến năm Mậu Thân (1968) thì kết thúc đời trụ trì cuối của hai pháp phái thuyền tôn này.

Danh sách liệt vị trụ trì lần lượt như sau:

1.- Khoan Giai, Thiện Chúng thuyền sư.
2.- Giác Viên hay Giác Vượng, Từ Tạng, Tịnh Minh thuyền sư.
3.- Phá Sĩ, Từ Tuyên thuyền sư.
4.- Thông Toàn, Thuần Hợp, Minh Minh thuyền sư
(Vị sư tổ thứ 4 này, có thời gian đã che chở cho một số Linh Mục được thoát chết vì nạn Công Giáo khủng hoảng) Tự Đức sát Gia Tô.
5.- Tâm Khoản, Hào Quang, Chân Từ Thuyền Sư.
6.- Tăng Cang Đỗ Văn Hỷ, tức Hoà Thượng Thích Thanh Thao.

Tất cả 6 đời gồm 175 năm. Từ đây trở đi chỉ nguyên có một Giáo Tôn hoằng truyền Phật Pháp cho đến nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12247)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11014)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10904)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13349)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11771)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13652)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11887)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11156)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12172)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12380)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20565)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12398)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12433)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11698)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11565)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22387)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13550)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29622)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11535)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16706)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11981)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16814)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12053)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17904)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12617)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13141)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14733)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22590)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10567)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14032)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13865)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13696)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13841)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13904)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14813)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13832)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18399)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22777)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15382)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17302)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22395)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14240)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12562)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11144)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17746)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13187)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13088)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18777)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17165)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13485)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12892)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14691)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14637)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15841)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13495)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27409)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13211)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16673)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21367)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant