Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Tu Viện Bát Nhã tại tỉnh Lâm Đồng

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13501)
04. Tu Viện Bát Nhã tại tỉnh Lâm Đồng

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG III
TU VIỆN BÁT NHÃ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG VIỆT NAM

Các du khách khi đến Việt Nam đều phải đến tham quan Đà Lạt. Đà Lạt là một nơi danh lam thắng cảnh có tầm vóc quốc tế, nhưng đi đường bộ từ Sàigon (TP HCM) đến Đà Lạt đều phải đi xe trên quốc lộ số 20, và phải qua thị xã Bảo Lộc thuộc Tỉnh Lâm Đồng, nơi đây cách xa Đà Lạt khoảng 100 cây số. Bảo Lộc là một thị xã có những đồn điền trà bao la, bát ngát, nguồn lợi kinh tế chính của Bảo Lộc là Trà, có những nhà máy chế biến từ trà xanh ra trà tầu hoặc các loại trà thơm để xuất khẩu. Vậy những du khách không thể quên đến tham quan một thác nước nổi tiếng, đó là thác DAMBRI, cách xa thị xã Bảo Lộc trên 20 cây số, đường nhựa rất tốt. Đặc biệt có khoảng 10 cây số hai bên đường trồng dâu ăn trái và dâu nuôi tằm với những cánh đồi trồng trà bao la.

Khi bắt đầu vào đến đầu xã Dambri chỉ cách thác Dambri 2 cây số, mọi du khách đều nhìn thấy một Tu Viện mới được tạo dựng cách đây 5 năm, (năm 1998) tôi có đến tham quan thác Dambri, lúc đó chỉ có một pho Tượng PhậtQuan Âm cao khoảng 7m, đứng chơ vơ giữa cách đồi rộng mông mênh, chưa có cây cối, nhà cửa gì cả. Nhưng nay đã có một Tu Viện Bát Nhã do Thượng Tọa Thích Đức Nghi, viện chủ Tu Viện, với tinh thần vô úy của một vị chân tu, ngài đã tận dụng tất cả tinh thần, thường hay đi chu du khắp nơi nhất là các nước Pháp, Canada, Úc và Hoa Kỳ để cầu viện hầu có tài chánh và phương tiện đem về xây cất, mở mang khu Tu Viện Bát Nhã này.

Tu Viện Bát Nhã nằm trên khu đất rộng 10 mẫu tây, xung quanh là các khu kinh tế mới của đồng bào các nơi từ miền Trung, miền Bắc đến lập nghiệp với dân bản xứ chỉ có một số rất ít đồng bào dân tộc Châu Mạ, K’Ho sống bao đời nay ở khu vực thác Dambri, thị xã Bảo Lộc, Tỉnh Lâm Đồng. Thượng Toạ Thích Đức Nghi đã từ thị xã Bảo Lộc, suốt năm năm vật lộn với gió mưa và đã vượt qua bao chướng ngại để tạo dựng lên khu Tu Viện BÁT NHÃ, nay đã khang trang và tương đối đầy đủ với những tiện nghi tối thiểu bao gồm: Chánh điện, Hậu tổ, giảng đường, tăng xá, lầu chuông, lầu trống... sự sinh hoạt của Tu Viện nay đã trở nên nhộn nhịp hàng ngày.

Từ khi Tu Viện Bát Nhã hiện hữu tại thôn 10, xã Damb’ri, hàng ngàn đồng bào người Kinh và dân tộc thiểu số đã đặït trọn niềm tin vào Tăng chúng. Gần 5 năm qua có trên 500 người Châu Mạ thuộc buôn Đăng Đừng tụ hội về đây qui y Tam Bảo. Hàng tuần vào ngày chủ nhật hoặc các dịp lễ lớn của Phật Giáo, dân chúng quanh vùng đều tự giác về chùa tụng kinh nghe pháp và làm công quả. Ngược lại, khi đồng bào tín ngưỡng đạo Phậtduyên sự, Thầy Đức Nghi cũng tùy thuận đại chúng công cử đệ tử đi khắp nơi để chia sẻ nỗi khổ nhọc cùng các Phật tử.

Ngoài Tu Viện Bát Nhã ra Thượng Toạ Thích Đức Nghi còn tạo dựng lên sắu tự viện khác tại các xã Lộc Đức, chùa Pháp Hoa xã Lộc Thành, Chùa Niết Bàn Xã Lộc Thắng, Chùa Hoa Nghiêm xã Đại Bình, chùa Phổ Hiền thị xã Bảo Lộc, Tu Viện An Lạc ở Datro-Hàm thuận, chùa Quan Âm. Tất cả hệ thống này đều trực thuộc sự quản lý của Tu Viện BÁT NHÃ. Ngoài hệ thống các chùa, tự viện nêu trên thầy Đức Nghi cũng không quên tổ chức và tạo lập lên các cơ sở từ thiện, xã hội để tạo điều kiện cho các con cháu của các Phật Tửnơi sinh hoạt và học Việt ngữ, đồng thời cũng để bảo tồn sức khỏe cho Phật tử thuộc các vùng phụ cận và khi đến sinh hoạt tại chùa.

Thời gian qua thầy Đức Nghi cũng đã thành lập được 24 nhà trẻ hiện diện khắp thôn làng với tên gọi Sen Hồng, Sen Trắng... nuôi giữ miễn phí một ngàn cháu từ 1 đến 5 tuôi. Còn tại Chùa có phòng y tế khám bệnh “Tuệ Tĩnh Đường” cũng đã đi vào hoạt động được 3 năm, khám và chữa bệnh từ thiện. Hướng tới Tu Viện Bát Nhã sẽ kiến tạo toà tháp 7 tầng thờ 1000 tượng “Bồ Tát Quan Thế Âm” thiền đường...

Hiện tại tu viện tuy chưa đủ điều kiện để tổ chức đại lễ Lạc Thành nhưng về sự tu học của đại chúng ngày càng phát triển, khởi sắc. Hàng tháng khóa tu Chánh Niệm vẫn duy trì đều đặn với sự tham dự của hàng trăm Phật Tử đến từ các nơi. Mọi sinh hoạt thuộc hệ thống Tu Viện Bát Nhã đã và đang tiến hành đều đặn và khởi sắc. Tuy nhiên, để có phương tiện duy trì được các sinh hoạt Phật Sựtừ thiện, xã hội rất cần thiết sự phát tâm cúng dường và các mạnh thường quân yểm trợ cho Thầy Thích Đức Nghi để duy trìhoàn tất các công trình còn lại của tu viện.

Mọi sự giúp đỡ, cúng dường, góp phần công đứcyểm trợ cho Tu Viện Bát Nhã. Kính xin quí vị vui lòng gửi về địa chỉ: Thượng Toạ Thích Đức Nghi viện chủ Tu Viện Bát Nhã tại xã Damb’ri hoặc Tu Viện An Lạc xã Lộc Sơn, thị xã Bảo Lộc Tỉnh Lâm Đồng, Điện thoại số 063-864903, hoặc 063-751518. E-Mail số: ducnghi@hcm.vnn.vn 

Tưởng cũng nên nhắc quí vị đến vãng cảnh Tu Viện Bát Nhã cũng có dịp đi tham quan thác Dambri, một trong những thắng cảnh tuyệt đẹp, khi vào đến thác Damb’ri, ngay chỗ cho du khách đậu xe là một khu nhà kiếng trưng bày các loại lan rừng và các cây kiểng trưng bày rất đẹp, vào trong thác Dambri có rất nhiều cảnh cho du khách tham quan như chiếc cầu treo dài khoảng 30 thước, và các khu giải trí khác như du khách có thể hóa trang làm người dân tộc để quay phim chụp hình kỷ niệm, và đặc biệt đứng trên cầu xi măng bắc ngang qua suối ta nhìn xuống thác rất đẹp, những người đi dưới đáy hồ nhỏ như đàn kiến bò, trên những con đường mòn được xây từng cấp như các bậc thang để du khách đi xuống tham quan.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 124)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 179)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 197)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 262)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 182)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 231)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 222)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 247)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 279)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 352)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 590)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 450)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 468)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 559)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 743)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 810)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 840)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 827)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 720)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 699)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 702)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 803)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 823)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 926)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 705)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 598)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 696)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 813)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 697)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 697)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 796)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 815)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 808)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 847)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 884)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 875)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1068)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 941)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1637)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1054)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1198)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 945)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1201)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1106)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1113)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1265)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1534)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2013)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1083)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1343)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1086)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 935)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1053)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1083)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1507)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1265)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1278)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1013)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1172)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant