Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

07. Phải coi như giới tăng sĩ Miến Điện đã thành công

24 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12628)
07. Phải coi như giới tăng sĩ Miến Điện đã thành công
PHẢI COI NHƯ GIỚI TĂNG SỸ MIẾN ĐIỆN
ĐÃ THÀNH CÔNG 
Time Magazine trực tuyến, số ra ngày thứ sáu, 12 tháng 10 năm 2007
TIME Friday, Oct. 12, 2007 By DAVID VAN BIEMA/NEW YORK CITY
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1670911,00.html 

Phù Sa chuyển ngữ 

Trong chiếc áo tu sỹ màu nâu, Thiền sư ngồi xếp bằng trong thế hoa sen trên chiếc tọa cụ cũng màu nâu tại một khách sạn ở khu Manhattan, trung tâm Nữu Ước. Bên cạnh Thầy là bình trà, cặp kính và một cuốn sách nhan đề “Mindfulness in the Marketplace” (tạm dịch là Chánh niệm ở giữa chợ - do Thầy viết). Thiền sư Nhất Hạnh đã dành cho Tuần báo Time một khoảng thời gian rất ngắn giữa chuyến đi hoằng pháp ở Hoa Kỳ để nói về vấn đề các tu sỹ ở Miến Điện mà hiện nay đang rất được quan tâm. (xem Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh)

Dài theo dòng lịch sử, ông thầy tu mang tên Nhất Hạnh đã thực sự là người phát ngôn cho đạo Phật trên toàn thế giới. (“Thích” là họ của tất cả quí thầy và quí sư cô Việt Nam mang khi vừa được xuất gia). Lần đầu tiên Thầy được thế giới biết đến là vào đầu thập niên 60, khi Thầy lãnh đạo giới tu sĩ Phật giáo trong nước chống lại sự theo đuổi chiến tranh tại Việt Nam của cả hai phía. Cái giá của sự lựa chọn này là sự hy sinh của một số đồng bào của Thầy và bản án biệt xứ của chính Thầy. Hoa kỳ là nơi mà lời kêu gọi của Thầy gây được nhiều ảnh hưởng nhất. Sự chống đối chiến tranh Việt Nam nơi đây của Thầy đã thuyết phục được Mục Sư Tiến Sĩ Martin Luther King Jr. đích thân bày tỏ lập trường chống đối của ông ta về cuộc chiến tại Việt Nam. Và sau đó Mục Sư King đã đề cử Thầy cho giải Nobel Hòa Bình năm 1967. Nhờ biết nhiều ngôn ngữ, Thầy tiếp tục viết lách và thuyết giảng khắp nơi bằng nhiều thứ tiếng, khai sinh cho phong trào “đạo Bụt dấn thân". Thầy tìm ra được những ngôn từ làm thành những mẫu số chung cho cái thấy về đạo Bụt này của Thầy và những niềm tin khác trên thế giới. Thầy và hàng chục cuốn sách của Thầy đã dành được nhiều sự mến mộ của quần chúng Hoa Kỳ, Uy tín của Thầy chỉ đứng thứ hai, sau đức Đạt Lai Lạt Ma. Thầy đã nhiều lần bày tỏ thái độ chống đối của Thầy với nhiều cuộc xung đột trên thế giới trong đó có cả cuộc can thiệp của Hoa Kỳ vào Iraq. Thầy hiện đang sống với rất nhiều đệ tử xuất giatại gia của Thầy tại một tu viện do chính mình thành lập ở miền Nam nước Pháp.

Đạo Phật có ba tông phái chính: Nam Tông (Thượng Tọa Bộ), theo sử học là tông phái đơn giản nhất, đang được thực hành phổ biến tại Nam Á và cũng là tín ngưỡng của chư Tăng Miến Điện; tông thứ hai, Bắc Tông, cũng là đạo Bụt Đại Thừatruyền thống Thiền của chính Thầy là một nhánh trong đó; và tông Kim Cang, tông phái của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tuy nhiên trong cuộc mạn đàm, Thầy nhấn mạnh tới sự hợp nhất và đoàn kết của cả ba truyền thống trên trong sự ủng hộ cuộc đấu tranh của người dân Miến Điện. Thầy nói “Quí thầy ở Miến Điện cũng thực tập Niệm Định Tuệ như chúng tôi”.

Thầy nói phải coi như chư tăng Miến Điện đã "hoàn thành sứ mệnh của họ rồi. Họ đã thành công bởi vì cho dù đang bị tù đày hay mạng vong, quí thầy đã cống hiến phần lãnh đạo tâm linh cho toàn dân. Và bây giờ đây là đến phiên toàn dân Miến Điện và thế giới phải tiếp tục công tác ấy." Được hỏi về vấn đề tử đạo, Thầy trả lời: "Chúng ta nuôi dưỡng sự ý thức lớn rằng hiện đang có những thầy tu bị hành hạtiếp tục chịu khổ để ủng hộ cho nền dân chủ của người dân Miến Điện"

Có lẽ hành động gây chú ý nhiều nhất của chư tăng Miến Điện trước khi họ bị bỏ tùcử chỉ biểu tượng lật úp những chiếc bình bát. Trong văn hóa Tây phương việc cúng dường thường chỉ giới hạn trong nhà thờ Ky Tô giáo hay giáo đường Do Thái, vậy nên sự kiện này (lật úp bình bát - nghĩa là từ chối nhận phẩm vật cúng dường) có thể coi như lạ lùng. Tuy nhiên thiền sư Nhất Hạnh đã chỉ rõ đó là một lời tuyên bố hùng hồn gửi đến các vị lãnh đạo chính phủ về thái độ chống đối của họ. "Trong văn hóa Phật giáo", Thiền sư giải thích, "cúng dường phẩm vật cho chư tăng tượng trưng cho sự kiện được làm một việc thiện, và nếu mình không có cơ hội yểm trở sự tu tập tâm linh (như cúng dường chư tăng) thì mình bị coi như sống trong tăm tối". Các vị tu sĩ đã bày tỏ sự lên án bằng hành động mạnh mẽ nhất: không cho chính quyền cơ hội làm điều thiện. Vai trò quan trọng của chư tăng Miến Điện còn được tăng thêm qua những báo cáo rằng có hàng trăm binh sĩ Miến đã bị chính quyền bỏ tù vì từ chối cầm súng bắn quý thầy.

Ở Hoa Kỳ, mối liên hệ giữa Phật giáo và công việc xã hội chưa được mọi người hiểu rõ. Nhiều người Mỹ nhìn Phật giáo như một triết lý đã coi thế giới này chỉ là một cõi tạm và không quan trọng; ở xứ này, hình ảnhPhật giáo được phổ biến nhiều nhất là pháp môn cốt lõi của truyền thống Nam Tông với sự tập trung tâm ý qua sự quán tưởng về Bi, hay là Từ. Thiền sư Nhất Hạnh nói: "Thiền định là để có tuệ giác, để tăng trưởng sự hiểu biếtlòng từ bi, và một khi chúng ta đạt được những điều đó, thì chúng ta dĩ nhiên phải hành động thôi. Sau khi giác ngộ, đức Bụt đã đi vào đời để giúp người. Thiền định không phải để xa lánh thế tục; thiền định là nhìn rõ để có được cái tuệ giác cần thiết mà hành động. Nghĩ rằng thiền là chỉ ngồi đó vui hưởng sự bình an là không đúng".

Sau cuộc phỏng vấn ngắn gọn về Miến Điện, Thầy đã chia sẻ về những ưu tư đã chiếm trọn tâm trí Thầy buổi chiều hôm đó: Trước tiên, Thầy nói về vấn đề hâm nóng trái đất và sau đó là về chuyện ăn chay (ăn vật thực có mức sống thấp). Thầy thuật lại câu chuyệnngày xưa Bụt kể về một cặp vợ chồng phải vượt qua sa mạc với đứa con nhỏ, và khi hết thức ăn đã buộc lòng phải giết rồi ăn thịt đứa con mình. Họ mang theo xác đứa bé để ăn từng ngày và rất ân hận chuyện đã làm. “Sau khi kể câu chuyện cho các đệ tử, Bụt hỏi, “Cặp vợ chồng kia có sung sướng khi ăn thịt con mình không?” Quý thầy trả lời “Không, không thể nào”. Bụt nói “Ta phải ăn như thế nào để còn giữ được lòng từ bi trong tâm hồn”. Bằng không, chúng ta như đang ăn thịt con cái và các cháu nội ngoại của chúng ta. (kỹ nghệ chăn nuôi là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng hâm nóng trái đất hiện nay). Thật là một lời nhắc nhở tuy bình dị mà thật nghiêm minh, khiến ta có cảm tưởng như có một khối thép đằng sau chiếc áo thầy tu bay nhẹ nhàng, nụ cười hiền lành, và lối hành xử hòa ái. 

 

Burma’s Monks: “Already a Success”

Friday, Oct. 12, 2007 By DAVID VAN BIEMA/NEW YORK CITY
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,1670911,00.html 

The monk sat cross-legged in the Manhattan hotel room in augbergine robes on an aubergine prayer mat, a thermos of tea, his reading glasses and a book, Mindfulness in the Marketplace, arranged neatly by his side. Thich Nhat Hanh took time out from a U.S. tour to speak briefly with TIME about the monastic uprising in Burma. (See video Video- David Van Biema Interviews Thich Nhat Hanh).

Nhat Hanh has a long history as one of Buddhism's truly international spokespeople. ["Thich" is a name adopted by all Vietnamese monks and nuns upon ordination.] He first came to global attention in the early 1960s, when he led fellow monks in his native Vietnam to oppose the prosecution of the war there by either side — a position that eventually led to the deaths of several of his followers and his own exile. He continued his opposition from the United States, where his counsel was influential in convincing the Rev. Dr. Martin Luther King Jr. to announce his own opposition to the conflict. King subsequently nominated Hanh for the Nobel Peace Prize. He continued speaking and writing (in a variety of languages — he is a polyglot), working out a theory of "engaged Buddhism," exploring the commonalities between his philosophy and other world faiths, attaining a popularity (and book sales) in the U.S. second only to that of the Dalai Lama, and lending his opposition to a series of world conflicts, including America's involvement in Iraq. He now lives in a monastic community he founded in France. 

Buddhism has three major branches: Theravada, historically the simplest, which is now practiced primarily in South Asia and is the faith of the Burmese monks; Mahayana, of which Hanh's own Zen discipline is part; and the Dalai Lama's Tibetan branch, which is labeled Vajrayana. In conversation, however, Hanh stressed the unity of the three and their solidarity with the embattled Burmese. "They also practice mindfulness and concentration inside like us," he said. 

He said the Burmese monks had "done their job. It is already a success because if monks are imprisoned or have died, they have offered their spiritual leadership. And it is up to the people in Burma and the world to continue." Pressed on the question of martyrdom, he replied: "We nourish the awareness that monks are being persecuted and continue to suffer in order to support the people in Burma for the sake of democracy." 

Perhaps the most striking gesture made by his Burmese brethren before they were attacked was the symbolic act of turning their begging bowls upside down. In a Western culture where almsgiving happens in the confines of a church or synagogue, this may have seemed odd. But Nhat Hanh pointed out that it was a powerful statement of denial to the regime leaders. "In Buddhist culture," he explained, "offering food to the monk symbolizes the action of goodness, and if you have no opportunity to support the practice of spirituality then you are somehow left in the realm of darkness." Their supreme act of condemnation: giving the regime no chance to do good. The importance of monks in Burma was also suggested, in a grisly way, by reports that hundreds of Burmese soldiers had been arrested for refusing to shoot at them. 

In the U.S., the connection between Buddhism and social action is not readily understood. Many Americans perceive Buddhism as a philosophy that regards this world as transitory and unimportant; in this country, the most widely disseminated kind of Buddhism is a stripped-down version of Theravada practice with a strong emphasis on ritual supplemented by meditations on meta, or loving-kindness. Said Nhat Hanh: "Meditation is to get insight, to get understanding and compassion, and when you have them, you are compelled to act. The Buddha, after enlightenment, went out to help people. Meditation is not to avoid society; it is to look deep to have the kind of insight you need to take action. To think that it is just to sit down and enjoy the calm and peace, is wrong." 

After a brisk interview about Burma, Nhat Hanh gave some sense of the topics that were most on his mind that afternoon: he talked first about global warming and then about eating low on the food chain. He told a Buddhist story of a couple who were forced to cross a desert with their young son and, running out of food, killed and ate the child, whose diminishing corpse they carried with them, constantly apologizing to it. "After the Buddha told that story, he asked the monks, 'Do you think the couple enjoyed eating the flesh of their own son?'" Nhat Hanh recounted. "The monks said 'no, impossible.' The Buddha said, let us eat in such a way that will retain compassion in our heart. Otherwise we will be eating the flesh of our son and grandson." It was a stark and stern reminder of the steel beneath the flowing robe, gentle smile and peaceful demeanor. 

Hình Ảnh và Video

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 97)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 126)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 194)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 133)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 186)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 169)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 199)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 227)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 310)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 548)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 409)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 404)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 499)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 687)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 741)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 771)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 770)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 678)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 632)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 651)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 759)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 779)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 875)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 634)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 554)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 643)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 769)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 640)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 649)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 750)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 762)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 760)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 800)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 841)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 816)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1018)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 882)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1538)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 996)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1150)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 890)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1133)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1054)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1050)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1205)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1481)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1829)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1027)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1285)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1027)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 890)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1005)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1034)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1452)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1203)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1230)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 967)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1113)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1578)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant