Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

09. Aung San Suu Kyi và hồn của nước

24 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13268)
09. Aung San Suu Kyi và hồn của nước
AUNG SAN SUU KYI VÀ HỒN CỦA NƯỚC
Cao Huy Thuần


blankDù đêm tăm tối bao nhiêu, mặt trời vẫn lại mọc. Sự thực đó, thế giới đang thấy ở Myanmar. Nhưng có một sự thực khác nữa thế giới cũng vừa thấy qua con người của bà Aung San Suu Kyi: cường bạo đàn áp bao nhiêu, sức mạnh tinh thần vẫn thắng. Bà nói như thế từ lâu, nghe khó tin. Nhưng sự thực đã là sự thực. Ai cho bà sức mạnh đó? Cái hồn của nước bà. Cái hồn ấy, ai cũng biết: đạo Phật của bà.

Tất nhiên, bà còn có niềm tin mãnh liệt về dân chủ. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn nói ở đây. Tôi chỉ muốn tìm hiểu tại sao một nước theo Phật giáo nguyên thủy như Myanmar, trong đó các sư sãi thường ít lo lắng đến chuyện xã hội bằng chuyện tu hành bản thân, lại diễn ra những quang cảnh tấn công chùa chiền, bắt bớ tăng ni, làm như thử Phật giáo ở Miến Điện đã “dấn thân” tự bao giờ trong chính trị.

Có thật thế chăng? Và nếu có liên hệ thì tôn giáo và chính trị đã liên hệ với nhau như thế nào trong lịch sử? Tôi không có tham vọng trả lời câu hỏi có tính nghiên cứu đó trong một bài báo xuân ngắn ngủi. Tôi chỉ xin kể, và kể rất giản lược, vài chuyện có liên quan đến câu hỏi đó để điểm lại quá khứsuy đoán tương lai.

Chuyện đầu tiên mà tôi muốn kể là từ bao giờ dân tộc Miến Điện mang cái hồn ấy. Từ xa xưa. Và bởi vì quá xa xưa nên sự thực lịch sử nhiều khi trộn lẫn với truyền thuyết. Người dân Miến Điện kể rằng đức Phật đã đến đất của họ lần đầu bằng tóc của Ngài. Chuyện này có thật trong kinh. Sau khi đức Phật thành đạo và đang tĩnh tọa dưới cây bồ đề thì có hai thương nhân từ phương xa đi qua đó. Họ cung kính dâng thức ăn cho Ngài và xin quy y. Đó là hai đệ tử đầu tiên của Phật. Khi về lại xứ, họ xin Ngài vài sợi tóc để thờ. Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.

Lần thứ hai, đức Phật đến bằng chân. Một thương nhân khác, tên là Punna, đã đến tận Savatthi, nơi đức Phật đang thuyết giảng, và được Ngài thâu nhận vào tăng chúng. Sau một thời gian tu học, ông xin Phật cho đi giáo hóa. Phật nói: dân xứ ấy dữ lắm, ông giáo hóa bằng cách nào? Ông thưa: con sẽ không bao giờ giận dù cho họ giết con. Chuyện này cũng có thật trong kinh. Nhưng chi tiết tiếp theo thì tôi chưa thấy ở đâu.

blankPunna giáo hóa thành công, xây được một tu viện, và mời Phật đến thăm. Ngài đến với 500 vị tăng. Khi trở về, đức Phật dừng chân bên sông Nammada, gần dãy núi Saccabandha. Một vết chân của Ngài in dấu không phai gần bờ sông, một vết chân khác in dấu trên núi.

Hai vết chân bây giờ là hai thánh tích, ngày xưa được vua thờ, ngày nay là đất hành hương của dân chúng.

Đức Phật còn để lại cả hình ảnh của Ngài. Truyền thuyết ghi rằng bức tượng thờ ở chùa Mahamuni cho đến năm 1784 là do vua và dân tạc sau khi được đón rước Phật tại vương quốc Dhannavati. Tượng ấy sau đó được thỉnh về chùa Arakan ở Mandalay.

Tất cả những sự kiện, vừa lịch sử vừa truyền thuyết đó, nói lên một điều: người dân Miến Điện hãnh diện về nước của mình như là đất của Phật, Phật đã đến đó và đã để lại xá lợi cho dân.

Hơn ở đâu hết, đất đó còn là đất Phật vì gần 90% dân số cùng thờ một đạo. Hơn ở đâu hết, người dân dù nghèo đến bao nhiêu cũng thực hành công đức như một nếp sống bình thường, cúng dường chư tăng, tô điểm chùa chiền.

Người bên ngoài, Tây phương và cả không Tây phương, đều không hiểu tại sao dân chúng nghèo như thế mà vẫn chắt chiu dành dụm để kiếm chút vàng làm rực rỡ thêm tượng Phật. Họ không hiểu, nhưng chính điều không hiểu đó đã làm người Miến Điện thành người Miến Điện.

Hành trì công đứclẽ sống của người dân Miến. Tạo công đức ở kiếp này làm họ vui. Càng nhiều công đức càng vui. Kiếp này họ vui, kiếp sau họ hưởng. Sống là như vậy. Không phải ăn, mặc, nhà cao cửa rộng là căn bản. Tu ấy là tu phước, nhưng cũng là tu hạnh, hạnh ấy là bố thí, là biết cho, không phải dễ đâu.

Thú thực, bản thân tôi cũng không hiểu nổi người Miến cho đến khi tôi đọc bà Aung San Suu Kyi. Bà nói: “Quan tâm đầu tiên của tôi là theo sát những nguyên tắc của đức Phật trong mọi hành động của tôi trên đời. Như vậy là bởi vì tôi tin rằng tất cả chúng ta, như là người, đều có một bề sâu tâm linh không thể lơ đãng được”.

Phong trào dân chủ của bà, bà xem đó như là một “cách mạng tâm linh” mọc rễ từ trong những nguyên tắc Phật giáo. Và khi người ta hỏi bà “đức tính gì nằm tận trong thâm sâu của phong trào ấy”, bà nói không ngần ngại: “Sức mạnh bên trong. Chính là sự vững chãi tâm linh đến từ tin tưởng rằng cái gì ta làm là đúng, dù cho điều đó không mang đến lợi lộc cụ thể tức thì. Chính là sự kiện này: điều ta đang làm giúp ta củng cố sức mạnh tâm linh của ta. Sức mạnh này ghê gớm lắm”.

blankBởi vậy, trong khi ở nơi khác, phát triển kinh tế là kinh nhật tụng, ở Miến Điện, phát triển kinh tế chỉ là phương tiện, mục đíchđời sống tâm linh của người dân. Tranh đấu cho độc lập trước đây cũng vậy. Tại sao phải độc lập? Tại vì, như một câu hát của các người làm cách mạng thời 1930, độc lập là để phục hồi lại phồn vinh của ngày xưa, “để người nghèo cũng có thể xây dựng chùa chiền”. Đó là mục đích của đời sống, đó là hạnh phúc của người dân.

Tôi nói thêm một điều nữa về đặc tính của Phật giáo Miến Điện trước khi bắt qua chuyện thứ hai: trên đất Phật ấy cũng có một tín ngưỡng lâu đời của dân gian, gọi là Nat, thờ thần, tin bùa chú, phù phép, ưa nhảy múa. Tín ngưỡng ấy hồn nhiên chung sống hòa bình với Phật giáo, nhưng Phật là Phật, thần là thần, đâu có hồn nhiên lẫn lộn được, lát nữa tôi sẽ nhắc lại vấn đề này. Bây giờ, xin bắt qua chuyện thứ hai.

Chuyện thứ hai là chuyện liên hệ giữa quyền lựcgiáo hội tăng già. Một tác giảuy tín đã viết thế này: “Miến Điện có lẽ là nước hạnh phúc nhất thế giới trước khi người Anh đến… không có quý tộc, không có tăng lữ, không có Nhà Thờ, không có quân đội, không có nghèo khổ, đẳng cấp, địa chủ, ngân hàng”. Một xã hội bình đẳng, từ thiện.

Đúng hay không, tôi không dám nói, nhưng không có Nhà Thờ thì quá đúng. Không có Nhà Thờ trong cái nghĩa của Tây phương, nghĩa là một uy quyền tôn giáo duy nhất, tập trung, tập quyền, đối chọi với nhà nước, có khi ngang ngửa, có khi trội hơn.

Tôi tạm dùng chữ “giáo hội tăng già” để dịch chữ sangha, nhưng sangha không phải là một tổ chức tập trung, tập quyền, tôn ty trật tự, đẳng cấp phân minh, dưới phục tùng trên, trên chỉ huy dưới.

“Giáo hội” ở nước ấy chưa bao giờ ra khỏi mẫu mực tương quan nguyên thủy trong lịch sử, nghĩa là tương quan giữa tín đồchư tăng, trong đó tín đồ là người cúng dườngchư tăng là người thọ lãnh. Người cúng dường cung cấp phẩm vật, người thọ lãnh cung cấp phước đức. Trong ý nghĩa đó, ông vua chỉ là người đứng đầu của một tập thể cúng dường, có trách nhiệm duy trì hòa bình, phồn vinh, để ai ai cũng có thể thực hiện công đức. Trách nhiệm đó trao cho ông một quyền: gìn giữ cho đạo Phật được “tinh khiết”. Với quyền đó, ông là trọng tài khi cần thiết để xử những tranh chấp xảy ra liên quan đến giáo lý. Với quyền đó, ông là người bảo vệ đạo Phật.

Nhưng như vậy là ông có quyền can thiệp vào nội bộ của giáo hội. Ông can thiệp thông qua một “tăng thống” mà ông bổ nhiệm. Thế nhưng giáo hội đã không phải là một khối đồng nhất thì tăng thống có thực quyền gì trên các chi, các nhánh, sinh hoạt tự trị trong các làng xã, có trường riêng, tự viện riêng, do làng xã địa phương lập nên? Rốt cuộc, dù ông vua có nắm được “giáo hội” ấy, tập thể chư tăng vẫn sinh hoạt độc lập với đời sống riêng, và tăng thống chỉ là chiếc cầu lỏng lẻo giữa vua với một giáo hội chủ yếu là tự trị.

Để cụ thể hóa hình ảnh chiếc cầu lỏng lẻo ấy, ví dụ sau đây rất lý thú. Suốt cả thế kỷ XVIII, ông vua và tăng thống không giải quyết nổi một tranh chấp để “tinh khiết” giới luật. Đầu thế kỷ, vài vị tăng đi khất thực, khoác y như khi đi trong chùa, nghĩa là một vai để trần. Đừng tưởng đây là chuyện chơi trong một nước Phật giáo nguyên thủy, giữ giới luật như giữ con ngươi. Để trần một vai như vậy có đúng luật không? Hết vua này đến vua khác, vua này nói được vua kia nói không. Cả trăm năm không xử nổi một chiếc vai!

Tình trạng tự trị trong giáo hội lại càng phát triển vào những giai đoạn loạn lạc, ngay cả trước khi người Anh xâm chiếm. Phe phái xuất hiện, thiết lập kỷ luật riêng, tòa án riêng, thậm chí “tăng thống” riêng.

Vua Mindon (1853 - 1878) cố tăng cường can thiệp trực tiếp vào nội tình giáo hội, nhưng người Anh đã đến, Miến Điện bị chia hai, Hạ Miến Điện lọt ra khỏi chủ quyền của vua. Chính sách tôn giáo của người Anh, áp dụng trên cả nước, khi cai trị toàn thể Miến Điện, là không cần biết đến giáo hội nữa, tôn giáo với chính quyền là hai, giống như luật lệ ở mẫu quốc.

Các tôn giáo ở phương Tây tràn đến, Phật giáo không còn có ông vua nào nữa để đóng vai bảo vệ. Nhưng như thế mà hay, vì các ông sư bây giờ, sống ngoài vòng cương tỏa, đóng vai bảo vệ độc lập của nước.

Họ là những người đầu tiên thắp lên ngọn đuốc tranh đấu, những người đầu tiên liên kết với cư sĩ, với trí thức, để tạo thành mạng lưới chính trị chống đế quốc đầu tiên trong những năm 1920, 1930. Và như vậy tôi bước qua chuyện thứ ba.

Chuyện thứ ba là chuyện ông U Nu, thủ tướng đầu tiên của nước Miến Điện độc lập. Một nhân vật xuất chúng. Một lãnh tụ lỗi lạc. Một nhà chính trị được thế giới kính nể. Một con người dân chủ. Một Phật tử sùng đạo.

Tham gia tranh đấu trong mạng lưới đầu tiên của trí thức trẻ Phật giáo (YMBA), ông là lãnh tụ của đảng chính trị đầu tiên tranh đấu chống phát xít (AFPFL) sau khi Aung San bị ám sát. Độc lập vãn hồi, ông chủ tâm phục hưng lại Phật giáo.

Một mặt, ông lồng Phật giáo vào hệ ý thức mới mang màu sắc xã hội của thời đại và gọi đó là “xã hội chủ nghĩa Phật giáo”. Trung thành với văn hóa truyền thống, chủ nghĩa xã hội của U Nu nhằm thực hiện lý tưởng cổ truyền: hạn chế tham lam của người giàu, tạo thì giờ rảnh rỗi cho người nghèo, để ai cũng có thể tích cực thực hành công đức.

Mặt khác, ông không ngại can thiệp vào nội bộ Phật giáo, thành lập các tòa án của giáo hội để chấn chỉnh kỷ luật, tổ chức lại hệ thống giáo dục mà chùa chiền đảm nhận từ xưa, thành lập viện hóa đạo, chỉnh đốn đại học Phật giáo, kiết tập đại hội Phật giáo thế giới để nâng cao vai trò của Phật giáo Miến Điện trên thế giới Phật giáo, xây dựng chùa chiền…

Ý thức rằng Phật giáoyếu tố tinh thần duy nhất để kết hợp và hòa nhập các chủng tộc ít người trong một nước đa chủng bấp bênh hiểm họa ly khai, ông cố thiết lập một giáo hội lan tỏa ra tận các chủng tộc sát biên giới.

Tóm lại, U Nu hành động như một vị quân vương ngày xưa trong mối liên hệ giữa Phật giáolãnh đạo chính trị: người lãnh đạo bảo vệ Phật giáo, giáo hội ban cấp tính chính đáng cho chính quyền.

Nhưng giáo hội bây giờ đã quen chia thành khuynh hướng, phe nhóm rồi, ai cũng trọng ông U Nu như một thánh vương, nhưng người này trách ông bảo vệ Phật giáo như vậy là chưa đủ, người kia lại cho rằng ông đi như vậy là quá xa. Tình trạng trở nên trầm trọng khi ông đặt vấn đề Phật giáoquốc giáo vào trung tâm của tranh cử năm 1960. Đảng của ông đã tách ra làm hai trên những tranh chấp khác lại càng chia rẽ hơn trên vấn đề quốc giáo này.

Kết quả là đảng của phe U Nu đại thắng trong tuyển cử vì dân chúng ủng hộ chủ trương của ông. Nhưng đại thắng này không đủ giúp ông ở lại chính quyền lâu dài. Cùng với những khó khăn về kinh tế, chống đối của các chủng tộc, hiểm họa ly khai, bất an ninh ở biên giới, những biện pháp ủng hộ Phật giáo của ông như cấm giết bò, áp dụng lịch Phật giáo, chuyển đổi án tử hình, hòa giải với phe cộng sản... tạo cơ hội cho quân đội làm đảo chánh, dựng lên một chế độ độc tài tàn bạo dài dằng dẵng từ 1962 cho đến gần đây.

Tôi bắt đầu bài viết này với tóc của Phật. Là bởi vì chế độ độc tài ấy không có cách nào để lấy lòng quần chúng hiệu nghiệm hơn là khai thác lòng sùng kính của dân đối với xá lợi Phật. Do đó, chính sách rước răng Phật từ Trung Quốc đưa về được tổ chức cực kỳ hoành tráng trong cả nước suốt 45 ngày.

Cũng vậy, tín ngưỡng Nat với bùa chú phù phép được khích lệ tối đa, đẩy lùi Phật giáo vào thời tiền hiện đại.

Rồi cũng vậy, tướng tá xây chùa tráng lệ không thua gì những ngôi chùa tráng lệ nhất, ông này xây một chùa thì ông kia xây hai. Ta đây sùng đạo có thua ai! Chắc chắn là không thua ai về khoản tiếp thị: hình ảnh các ông tướng mộ đạo xuất hiện bên cạnh các sư sãi, chùa chiền, rước Phật, hành hương tràn đầy trên màn ảnh, báo chí.

Riêng cái khoản giáo hội tăng già, các ông tưởng nắm chắc trong tay, hóa ra chỉ nắm cái bóng, cái hình đã phân tán thành nhánh, thành cành, âm thầm tỏa bóng xuống khắp xã hội, vừa an ủi vừa duy trì sức mạnh.

Tương lai là chuyện thứ tư xin kể. Chắc chắn Phật giáo Myanmar sẽ không có một ông U Nu thứ hai. Nhưng Phật giáo ấy cần gì quốc vương khi đã là cái hồn của dân tộc? Vấn đề là: hình hài của dân tộc Miến đã lớn mạnh rồi, đã hấp thụ những món ăn tư tưởng mới, thở không khí của thời đại mới, tắm trong dòng sông có nhiều con nước mới đổ vào, vậy thì cái hồn ấy có hằng thường được chăng?

Tôi đang thấy hồn ấy nhập vào hình hài dân chủ nơi một người phụ nữ mảnh khảnhsáng ngời trí tuệlòng tin Phật. Tôi muốn được cùng với bạn bè Myanmar đọc vài câu đã thốt ra từ miệng người phụ nữ tự nhận mình là một Phật tử bình thường ấy.

Lạ thật, từ một người tranh đấu chống bạo lực, tôi nghe nhấn mạnh bao nhiêu lần lòng từ bi:
“Phật giáo đại thừa đặt nặng từ bi hơn Phật giáo nguyên thủy. Tôi cảm nhận sâu xa điều đó, bởi vì chúng ta cần rất nhiều từ bi trên thế giới này. Tất nhiên, từ bi cũng là một phần của Phật giáo nguyên thủy. Nhưng tôi muốn nhiều người hơn nữa trong dân tộc chúng tôi mang từ bi vào hành động”.

Từ bi trong chính trị? Chính vậy! “
Khi đức Phật muốn ngăn cản hai phe sắp chiến tranh, Ngài đến và đứng giữa hai bên. Hai bên có thể làm hại Ngài trước khi giết nhau. Nhưng như thế, Ngài bảo vệ cả hai. Ngài bảo vệ người khác bằng cách hy sinh thân mạng của Ngài”.

Nhưng sợ đã thành thói quen rồi trong xã hội. Làm sao bảo người ta từ bi? “
Mọi chuyện đã xảy ra chỉ vì không đủ tích cực từ bi. Có một liên hệ trực tiếp giữa tình thươngsợ hãi. Kinh từ bi dạy: “Như mẹ hiền yêu thương con một”. Đó là từ bi đích thực. Bà mẹ có thể hy sinh thân mạng vì thương con mình. Tôi nghĩ chúng ta cần thứ tình thương đó nhiều hơn nữa chung quanh chúng ta”.

Nếu những lời trên đây xuất phát từ một ông thầy tu, tôi không ngạc nhiên. Xuất phát từ một người đã từng đứng trước mũi gươm làn đạn, đó là bài học cho cả thế giới về sức mạnh của tâm linh.

Bài học mà đức Phật đã dạy: từ bi đi đôi với vô úy. Đừng sợ! Và bởi vì không sợ cho nên không giận. Đức Phật dạy bà đừng giận. Bà không hề giận trong khi chống lại đối thủ của bà.

Mới đây thôi, trong cuộc viếng thăm của ngoại trưởng Hillary Clinton, bà nhắc nhở lần nữa: “Khi tôi bắt đầu đi vào chính trị, tranh đấu cho dân chủ, tôi luôn luôn khởi đi với ý nghĩ rằng dân chủ là một quá trình sẽ mang lại hạnh phúc lớn hơn, hòa hợp lớn hơn, và hòa bình lớn hơn cho dân tộc tôi. Và điều đó không thể thực hiện được nếu chúng tôi bị trói chặt trong giận dữý muốn trả thù. Bởi vậy tôi chưa hề bao giờ nghĩ rằng con đường phía trước là phải đi qua giận dữcay đắng, mà phải đi qua hiểu biết lẫn nhau, cố gắng hiểu phía kia, và đi qua khả năng thương thuyết với những người suy nghĩ hoàn toàn khác với ta, đi qua khả năng đồng ý trên bất đồng ý nếu cần thiết, để làm thế nào rút ra hòa hợp từ những cách suy nghĩ khác nhau”.

Một bài học dân chủ và một bài học Phật giáo.

Cuối cùng bà đã chiến thắng. Nhưng ngay cả trong đêm tối mịt mù của đàn áp, bà vẫn quả quyết: “Trong đạo Phật, có bốn yếu tố để thành công, để chiến thắng. Ý muốn tốt, hành động đúng, dõng mãnh tinh tấn, trí tuệ bát nhã. Các nguyên tắc đạo đức đó là căn bản, tránh cho ta khỏi lạc đường. Với những nguyên tắc đó, ta sẽ đi đến được bất cứ nơi nào ta muốn. Chúng tôi không cần gì thêm”.

Trong đau khổ chung của dân tộc Myanmar, Phật giáo Miến Điện ngàn xưa đã hiện đại hóa với người phụ nữ ấy. Đạo Phật đó, ngôn ngữ hiện đại ngày nay gọi là “đạo Phật dấn thân”.

Cao Huy Thuần
(Phật Tử Việt Nam)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1225)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1278)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1437)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1170)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1551)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2715)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1722)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1267)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1179)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1299)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1837)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1577)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1785)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1714)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2254)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1671)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2002)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1994)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2156)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1862)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1844)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1996)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1827)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1764)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1844)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1780)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2053)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2151)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1858)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1976)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1738)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1792)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2293)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2191)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3684)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2340)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3001)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2372)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1944)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1708)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3203)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2236)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2926)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2590)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1938)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2900)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2539)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3426)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4104)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3592)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4153)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant