Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo nhập môn

13 Tháng Hai 201200:00(Xem: 17357)
Phật Giáo nhập môn

PHẬT GIÁO NHẬP MÔN
Fabrice Midal
Hoang Phong chuyển ngữ
Nhà Xuất Bản Phương Đông 2012


phatgiaonhapmon-bia-med
Hình bìa ấn bản tiếng Việt: Nhà xuất bản Phương Đông 2012

phatgiaonhapmon
Hình bìa quyển sách
"Phật Giáo Nhập Môn"
Thực tập thiền định - Cải thiện chính mình - Mở rộng trái tim
tác giả Fabrice Midal

Lời Tựa

(của Tác Giả Fabrice Midal)


fabrice_midal 

 Một số người Tây Phương nhờ Phật Giáo đã tìm thấy được một sự thăng bằng và một ý nghĩa nào đó cho cuộc sống của mình, và số người này ngày càng đông hơn. Trước hết là vì Phật Giáo đã giúp cho họ biết phải làm gì (một câu rất giản dị nhưng thật sâu sắc: chúng ta sống nhưng không biết tại sao chúng ta lại đang sống và sống để làm gì đây? Phật giáo giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của từng hành động của mình, nhìn lại từng hành vi của mình và giúp mình biết hành xử như thế nào trong từng cảnh huống). Phật Giáo không hề đưa ra những lời hứa hẹn hão huyền mà chỉ vạch ra một con đường giúp mỗi người trong chúng ta loại bỏ được những hành động đã biến thành thói quen trong cuộc sống thường nhật (giận dữ, thèm khát, hy vọng, ước mơ, tính toán, mưu mô, ăn nói huyên thiên, vui mừng, hớn hở, đau buồn, ganh tị, lo sợ, v.v...), chúng luôn trói buộc khiến chúng ta không thể nào sống một cách thật sự được.

 Phật Giáo khuyên chúng ta nên xem trọng sự hiện hữu của chính mình và phải biết sống như thế nào cho phù hợp với những cảm nhận thật sâu kín trong nội tâm của mình, và đấy cũng là những gì thật thiết yếu.

 Đối với Phật Giáo không có gì là sẵn có cả. Chúng tađủ khả năng phấn đấu để vượt lên trên hận thù và hung bạo cũng như mọi sự bám víu và mọi niềm thất vọng để xây dựng một thế giới an bình hơn (tác giả nêu lên mục đích của Phật Giáo thật giản dị và cũng hết sức khéo léo. Phật Giáo giúp chúng ta biết vững tin nơi khả năng của chính mình và nhất là không nên cứ chỉ chắp tay để cầu xin thêm mãi. Con người quả là tham lam, từ vật chất cho đến cả tâm linh. Phật Giáo giúp chúng ta quay về với hiện thực, với khả năng sẵn có của mình và với trách nhiệm của mình đối với thế giới và cả con người nói chung).

 Phật Giáo biểu dương cho một tính khí anh hùng nhằm mục đích giúp chúng ta khắc phục sự sợ hãi và để đương đầu với mọi hiểm nguy. Thật thế, sống giữa một thời đại không còn bảo tồn được những lý tưởng cao đẹp nữa thì quả thật những lời khích lệ của Phật Giáo là những gì có thể làm bùng cháy bầu nhiệt huyết của chúng ta. Thế nhưng Phật Giáo thì cũng lại chỉ là một thứ gì đó thật đơn giản. Đấy là một nghệ thuật sống mà ngày nay thế giới Tây Phương hầu như đã đánh mất, một nghệ thuật sống bắt nguồn từ việc luyện tập thiền định, tức là một phương pháp cụ thể giúp biến cải chính mình hầu hòa nhập với thực tại và sự sống.

 Thế nhưng phải trình bày Phật Giáo như thế nào để có thể chứng tỏ rằng đấy là một con đường đích thật?

 Công việc này không phải là đơn giản bởi vì Phật Giáo đại diện cho cả một lục địa gồm nhiều quốc gia rất khác biệt nhau. Chính vì thế mà Phật Giáo cũng đã trở nên thật đa dạng và phức tạp. Dòng lịch sử liên tục của Phật Giáo, kể từ khi được hình thành tại Ấn Độ và bành trướng sang hầu hết các quốc gia khác ở Á Châu, cho đến khi truyền vào thế giới Tây Phương vào thế kỷ XX, đã kéo dài tất cả gần hai ngàn năm trăm năm. Trên dòng lịch sử dài đằng đẵng đó nhiều học phái khác nhau cũng đã được hình thành.

 Tôi đã từng viết khoảng mười quyển sách nói về Phật Giáo, lịch sử Phật Giáo, các học phái Phật Giáo của Ấn Độ cũng như của Tây Tạng, và tôi cũng đã từng phân tích vai trò của huyền thoại cũng như nghệ thuật ảnh tượng trong Phật Giáo. Tôi hiểu rằng tôi đang đứng trước một sự thách đố lớn lao, đấy là kỳ vọng làm thế nào giúp cho nhiều người Tây Phương có thể hiểu được Phật Giáo một cách đúng đắn, để họ có thể mang ra ứng dụng vào cuộc sống thường nhật của mình. Tôi quyết định hy sinh tất cả đời mình cho mục đích đó, tức có nghĩa là sẽ phải cố gắng giảng dạy cách luyện tập thiền định như thế nào để tất cả mọi người ai ai cũng đều có thể thấu triệt được.

 Thế nhưng phải thú nhận rằng chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến việc phải viết một quyển sách về "Phật Giáo Nhập Môn" sao cho thật giản dị để mọi người đều có thể hiểu được. Tôi rất lo ngại vì e rằng công việc đó sẽ làm cho Phật Giáo bị đơn giản hóa và biến thể đi chăng?

 Vị giám đốc nhà xuất bản là ông Michel Grancher đã nhiều lần khuyên tôi không nên bó tay trước những thử thách ấy. Lời khích lệ của ông đã khiến tôi phải suy nghĩ nhiều.

 Thế rồi một giải pháp chợt đến với tôi. Trong những lúc hành thiền, hoặc ngồi cạnh một vị thầy hay chiêm ngưỡng một tác phẩm điêu khắc (một pho tượng Phật chẳng hạn) thì người ta cũng có thể tiếp xúc được với Đức Phật một cách thật xác thực, xác thực hơn cả những lúc vùi đầu vào các pho sách lý thuyết, hoặc các tập luận giải hay các tư liệu lịch sử. Do đó tôi quyết định sẽ không trình bày Phật Giáo qua các khía cạnh bao quát, cũng không triển khai các khái niệm căn bản về giáo lý, kể cả các nét chính yếu về lịch sử phát triển của Phật Giáo. Nội dung của quyển sách này vì thế cũng sẽ không nhằm vào mục đích tóm lược một cách khái quát các khái niệm căn bản trong Phật Giáo, mà chỉ nhất thiết giải thích một số thắc mắc mà quý vị có thể có đối với tín ngưỡng này, dù đấy chỉ là những thắc mắc thật đơn giản. Tóm lại chủ đích của quyển sách là làm thế nào để Phật Giáo có thể tác động đến quý vị, vấn an và giúp đỡ quý vị, hầu giúp quý vị tìm thấy cho mình một chút cảm ứng thiêng liêng nào đó.

 Tóm lại là tôi không có ý định đưa ra thêm một bản đúc kết về giáo lý Phật Giáo vì công việc này đã được quá nhiều tác giả khác thực hiện, mà đúng hơn là chỉ muốn giúp quý vị tìm thấy một chút hương vị ngọt ngào từ tín ngưỡng Phật Giáo. Đức Phật chính là sự thật trong từng giây phút của thực tại, là sự yên lặng sâu kín nơi con tim của chính quý vị, là một tình thương yêu tinh khiết nhất, một bầu không gian đang mở rộng... Đức Phật đang ngự tại nơi này, và đang hiện hữu trong lòng đôi bàn tay của chính chúng ta hôm nay.

*

 Tôi tu tập kể đến nay cũng đã hơn hai mươi năm. Và khi mới bắt đầu đứng ra để thuyết giảng thì tôi cũng đã ý thức ngay rằng nếu muốn dương cao ngọn cờ Phật Giáo (trong thế giới Tây Phương) thì nhất thiết phải kiến tạo được một Phật Giáo với các đường nét phản ảnh phong cách Tây Phương, có nghĩa là một hình thức Phật Giáo tương đối đơn giản, tránh bớt một số các hình thức lễ lạc cúng bái đậm màu tín ngưỡng Á Đông. Tuy nhiên và dù sao đi nữa thì cũng phải giữ cho được sự trung thực và chiều sâu của tín ngưỡng đó và đồng thời thì cũng phải phản ảnh được các đường nét cá biệt của thời đại tân tiến trong thế giới phương Tây ngày nay.

 Nếu muốn đạt được mục đích đó thì chắc hẳn là phải nhờ vào sức mạnh của thi phú với tất cả ý nghĩa rộng lớn của nó (có thể hiểu là sự rung động thật tinh khiết của xúc cảm con người). Thật thế đối với chúng ta, những người Tây Phương, thi phú là con đường hiển nhiên nhất giúp chúng ta hội nhập với hiện thực và thể dạng cụ thể nhất của sự tư do (thi phú là một cách bộc lộ những xúc cảm sâu kín trong lòng mình vượt lên trên những lề lối, quy ướccông thức thường tình, nhằm nối kết mình với một "góc cạnh" nào đó của hiện thực chung quanh. Nếu nhìn dưới khía cạnh ấy thì con người Tây Phương cũng như con người Á Đông không khác nhau lắm. Thật thế trên dòng lịch sử Phật Giáo Á Châu cũng đã từng có không biết bao nhiêu thi hào Phật Giáo đã sử dụng thi phú để mang những con người Đông Phương đến gần hơn với giáo lý của Đức Phật. Trong thế giới Á Đông thi phú - kể cả hội họa, âm nhạc và thư pháp - cũng là những nguồn cảm ứng lớn lao giúp được nhiều người vượt thoát khỏi những gì "tầm thường" nơi con người của họ để mở rộng con tim mình hầu giúp họ có thể hòa nhập với sự trong sángtinh khiết của thực tại. Thế nhưng tiếc thay một số người, cả Tây Phương lẫn Đông Phương, lại quá đỗi "thực tế" và "khô cằn", đã khép kín con tim của mình lại để đè nén và quên đi những xúc cảm thật mong manh trong chính con người của họ. Thi phú - hay nghệ thuật nói chung - sẽ không thể tạo được một tác động nhỏ nhoi nào đối với họ. Vì thế con tim của những ai biết rung động với những vần thơ trong lòng mình thì cũng nên cố gắng hát lên và hát lên nữa để đánh thức những xúc cảm đang bị bóp ngạt trong đáy lòng của một số người khác hầu cho tất cả chúng ta có thể cùng nắm tay nhau bước theo vết chân của Đức Phật).

 Tôi luôn tôn trọng các nguyên tắc căn bản của những khuynh hướng phi tôn giáo trong xã hội, cũng như luôn cố gắng giữ thái độ thận trọng đối với các tổ chức tôn giáo hiện hành, kể cả đối với Phật Giáo.

 Một số tác giả lại chọn các phương cách khác hơn để trình bày về Phật Giao. Thiết nghĩ cũng nên nói thẳng ra điều ấy (một số học giả Phật Giáo hoặc không phải là Phật Giáo viết về Phật Giáo theo sự hiểu biết của họ nhắm vào những chủ đích riêng tư của họ. Thật thế cũng không phải là hiếm các học giảtriết gia Tây Phương viết về Phật Giáo, thế nhưng đấy cũng chỉ là cách để phô trương sự uyên bác của mình mà thôi). Tôi không hề có tham vọng tự cho rằng mình đã nói lên "sự thật", mà đơn giản chỉ nêu lên con đường giúp mọi người tìm hiểu và để sống với Phật Giáo.

 Tôi cố gắng trình bày khá đầy đủ các khuynh hướng chủ yếu của Phật Giáo trong toàn bộ quyển sách, thế nhưng cũng xin đặc biệt nhấn mạnh hơn đến Phật Giáo Tây Tạngthiền học Zen. Riêng ở Á Châu, và nếu căn cứ trên con số tín đồ thì hai học phái này chỉ giữ một vai trò thứ yếu, thế nhưng đối với hầu hết người Tây Phương (theo Phật Giáo), mà trong số này có cả cá nhân tôi, thì tất cả chúng tôi lại đều đã nhờ vào hai học phái trên đây để biết đến Phật Giáo và để trở thành những người Phật Giáo.

 Để tránh bớt sự rườm rà, tôi không nêu lên các thuật ngữ tiếng Phạn, tiếng Pa-li, tiếng Nhật hay tiếng Tây Tạng. Tuy nhiên nếu muốn tránh không dùng đến các chữ ấy thì lại không phải là một việc dễ, bởi vì ngôn ngữ của chúng ta (ngôn ngữ Tây Phương) thiếu chính xác và khó có thể diễn đạt được một cách trung thực tính cách phi thường của các tư tưởng Phật Giáo, và hơn nữa thì các công trình dịch thuật (sang các ngôn ngữ Tây Phương) đã được thực hiện từ lâu nay lại thường quá sức vụng về (dù sao theo thiển ý của người dịch thì các ngôn ngữ Tây Phương cũng cho thấy có một số thuật ngữ thuộc các lãnh vực khoa học và triết học đôi khi cũng khá thích hợp để diễn tả một số khái niệm Phật Giáo. Trong khi đó thì các thuật ngữ Phật Giáo bằng "tiếng Hán Việt" lại quá xưa và chịu ảnh hưởng quá sức nặng nề bởi Hán ngữ, đôi khi thiếu tính cách khoa học cũng như các khía cạnh bao quát và trừu tượng của triết học, do đó không diễn tả được một cách trung thực chiều sâu và sự chính xác của nhiều khái niệm trong giáo lý Phật Giáo. Đó là chưa nói đến việc ngày nay không mấy người biết rành tiếng Hán, và đây cũng là một trở ngại không nhỏ trong việc phổ biến Phật Pháp). Các cố gắng trên đây của tôi chẳng qua cũng chỉ là một cách để giúp quý vị tránh bớt các khó khăn trên phương diện thuật ngữ, hầu giúp quý vị có thể cùng bước với tôi một cách dễ dàng hơn trên con đường thật tuyệt vời của Phật Giáo.

 Mỗi khi bị buộc phải sử dụng một thuật ngữ do tôi tự dịch từ tiếng Phạn thì tôi luôn ghi thêm tiếng Phạn gốc vào giữa hai dấu ngoặc. Vì chưa có sự thống nhất nào về các từ dịch thuật nên cách ghi thêm tiếng Phạn gốc giữa hai dấu ngoặc trên đây cũng có thể giúp cho một số người có ít nhiều kiến thức về loại ngôn ngữ Phật Giáo thông dụng này có thể hiểu được đấy là gì.

 Chỉ có một ngoại lệ duy nhất, đấy là trường hợp của chữ Dharma (Đạo Pháp). Tôi sẽ không dịch từ này mà dùng thẳng tiếng Phạn để chỉ giáo huấn của Đức Phật (kinh sách tiếng Việt dịch chữ dharma là "'pháp". Từ này có gốc từ chữ "dhr-" tức có nghĩa là mang, cầm, nắm giữ.... Chữ dharma nói chung có rất nhiều nghĩa khác nhau, tuy nhiên hai ý nghĩa chính yếu nhất của chữ dharma là: a) giáo huấn của Đức Phật, b) tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ, dù đấy là hữu hình hay vô hình, vật chất hay tư duy, có nghĩa là tất cả những gì có thể hình dung được hay tưởng tượng được... Thông thường để tránh sự lầm lẫn giữa hai nghĩa này người ta thường viết hoa - Dharma - khi dùng để chỉ giáo huấn của Đức Phật còn gọi là "Đạo Pháp", và viết chữ thường không hoa - dharma - khi được sử dụng để chỉ định tất cả các hiện tượng trong vũ trụ, và kinh sách tiếng Việt thì gọi đấy là "pháp". Tuy nhiên cũng cần ghi nhận là không phải tác giả Tây Phương nào cũng tuân thủ quy tắc về cách viết hoa hay không hoa này). Trở thành một người Phật Giáo là cách bước theo Dharma, tức là ước mong được hòa nhập với nó.


Vài lời giới thiệu của người dịch

 Quyển sách "Phật Giáo Nhập Môn" của Fabrice Midal chỉ là một quyển sách nhỏ mang tính cách khá đại cương với chủ đích dành cho các độc giả của thế giới Tây Phương nơi mà Phật Giáo cũng chỉ mới đặt chân đến chưa đầy một thế kỷ nay. Thế nhưng chúng ta không đọc quyển sách này với mục đích tìm hiểu về một Phật Giáo "non trẻ" của một lục địa "xa lạ" mà đúng hơn là để nhìn lại về một tín ngưỡng Phật Giáo "lâu đời" đã bám rễ vào mảnh đất Á Châu "quen thuộc" của chúng ta đã từ ngàn năm.

 Hiện nay người Tây Phương tu tập Phật Giáo rập khuôn theo người Tây Tạng, người Nhật, người Thái Lan, người Tích Lan hay Miến Điện, thế nhưng khi đọc qua quyển sách này thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy được ngay mối âu lo của họ là làm thế nào để có thể thiết lập được một Phật Giáo Tây Phương cho người Tây Phương. Thật thế tư tưởng Phật Giáo mang tính cách nhân loại và vượt lên trên mọi ranh giới do con người thiết lập, thế nhưng tinh thần Phật Giáo thì lại luôn tìm cách thích ứng với từng con người, trong mỗi địa phương và qua từng thời đại, hầu có thể giúp đỡ được tất cả mọi con người. Tác giả Fabrice Midal cũng như một số các nhà sư Tây Phương khác, kể cả một số nhà sư Tây Tạng đang quảng bá giáo lý của Đức Phật trong thế giới phương Tây, vẫn thường nêu lên mối quan tâm của họ về chủ trương trên đây. Một trong những vị tiêu biểu nhất cho khuynh hướng này là nhà sư Tây Tạng quá cố Chögyam Trungpa, và trường hợp của ông cũng đã được tác giả nêu lên trong Chương 10 của quyển sách.

 Trong khi các nhà sư Tây Phương và các nhà sư Tây Tạng hoằng Pháp trong thế giới Tây Phương luôn âu lo là phải làm thế nào để bảo tồn được sự tinh khiếtsiêu việt trong giáo huấn của Đức Phật nhằm để quảng bá trong một thời đại tân tiến, thì chúng ta những người Á Châu nói chung lại chỉ đang tìm cách triển khai hoặc tạo thêm một số hình thức màu mè nhằm " phục hồi", hay đúng hơn là để "cứu vãn" một tín ngưỡng có sẵn từ lâu đời mà mình đang được thừa hưởng. Đấy là chưa nói đến một số người còn tìm cách lợi dụng ảnh hưởng của tín ngưỡng đó đã từng ăn sâu vào dòng lịch sử của quê hương mình như là một công cụ để lợi dụng hay một chiêu bài để mưu đồ nhằm nhắm đến một mục đích gì.

 Sinh năm 1967 trong một gia đình Do Thái Giáo, năm 20 tuổi Fabrice Midal may mắn gặp được một nhà sư Tây Tạng khác thường là Chögyam Trungpa (1939-1987). Ông Midal bèn cạo đầu đi tu theo Phật Giáo Tây Tạng từ khi còn là sinh viên, và sau đó thì đỗ tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne (Paris). Tuy thấm nhuần các tư tưởng phóng khoáng, cấp tiến và "phi-giáo-điều" của vị thầy Chögyam Trungpa, ông cũng đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các vị thầy Tây Tạng lừng danh khác mà ông đã được theo học, và đặc biệt nhất là đã được nhà thần kinh học nổi tiếng Francisco Varela (1946-2001) là một trong các đệ tử thân cận của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, truyền thụ thêm cho ông về phép thiền định.

 Người dịch cũng xin mạn phép được ghép thêm trong bản chuyển ngữ một vài lời ghi chú nhỏ nhằm để giải thích hay triển khai thêm vài điều mà tác giả đã nêu ra hầu giúp người đọc theo dõi nguyên bản rõ ràng hơn. Các lời ghi chú này được trình bày bằng chữ nghiêng và đặt trong hai dấu ngoặc.

 

Bures-Sur-Yvette, 17.07.12

Hoang Phong


Phiên bản Ebook PDF xem trên máy vi tính (1,766 kb): Phật Giáo Nhập Môn- Fabrice Midal Hoang Phong

Phiên bản Ebook ePub xem trên Ipad (655 kb): Phật Giáo Nhập Môn - Fabrice Midal Hoang Phong (sau khi download về máy nhà, unzip thành dạng ePub xong chuyển qua Ipad)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1644)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1029)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1507)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1476)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1667)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1925)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1519)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1351)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1369)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1543)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1141)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1271)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1693)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1639)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2984)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1823)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1362)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1219)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1276)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1403)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1317)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1681)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1888)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1814)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2385)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1782)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2113)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2189)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2296)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1850)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1972)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2030)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1954)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2589)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1943)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1881)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1940)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1887)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2162)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2297)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1963)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2074)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1878)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1902)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2406)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2317)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3986)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2471)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3183)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2467)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2043)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1795)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2342)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3021)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2699)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant