Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những Con Số Bảy Trong Kinh Tạng Pali

24 Tháng Chín 201000:00(Xem: 22603)
Những Con Số Bảy Trong Kinh Tạng Pali
 

Nhân mùa Khánh Đản 2551, con kính xin cúng dường bài sưu tập này đến chư Phật. Kính xin hồi hướng phần phước thí này đến chư thiên trong mười muôn triệu thế giới sa bà và xin chia phần phước này đến tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài. Xin tất cả hãy hoan hỷ tùy nghi thọ hưởng đồng đều nhau cả thảy.

VỀ ĐỨC PHẬT:

- Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ. Tổng cộng trong 7 a-tăng-kỳ có 125.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

- Theo Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bổn, khi ra khỏi thai bào, Đức Bồ Tát đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước.

- Hoàng hậu Maya chỉ làm mẹ được bảy ngày rồi qua đời.

- Khi hoàng tử Siddhattha được năm ngày, có tám vị đạoBà La Môn lỗi lạc đến dự lễ Quáng Đính, bảy vị đưa hai ngón tay lên nói rằng hoàng tử hoặc sẽ thành vị hoàng đế lỗi lạc nhất thế gian hoặc sẽ thành Phật, chỉ có một vị nói hoàng tử sẽ thành Phật.

- Khi hoàng tử Siddhattha theo dự lể Hạ điền với vua cha, ngài ngồi tham thiền dưới gốc cây trâm và đắc được sơ thiền lúc mới vừa bảy tuổi.

- Sau khi thọ dụng bát cháo do bà Sujata dâng cúng, đức Bồ Tát đã nhịn đói suốt bảy tuần để trải qua bốn mươi chín ngày yên lặng suy niệm dưới cội Bồ Đề.

- Vào tuần lễ thứ sáu sau ngày thành đạo, Đức Phật di chuyển từ cây Ajapala qua cây Mucalinda để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát thì bổng nhiên có một trận mưa giông kéo tới. Mãng xà vương Mucalinda từ ổ chui ra quấn bảy vòng quanh mình đức Phật để che mưa gió cho ngài.

- Một trong ba mươi hai tướng tốt của đức Phật là bảy chỗ tay, chân, vai, và mình được đầy đặn.

- Trong một tiền kiếp bị thất niệm với một hoàng hậu, đức BồTát đã nằm suốt bảy ngày liền chịu đói khát, toàn thân bị siết chặt trong vòng vây của nữ sắc.

- Trong kiếp làm con Công chúa, Bồ Tát không bị sa bẩy trong suốt bảy ngàn năm.

- Đức Phật đặt cho năm trăm thanh niên Bà la Môn kiêu mạn câu hỏi “Thời gian ăn hữu tình. Ăn tất cả, ăn mình. Ai là hữu tình ấy. Ăn cả đến thời gian. Ai là người nấu chín. Thời gian, nấu hữu tình?” và cho họ thời gian bảy ngày để trả lời. Sau bảy ngày họ vẫn không tìm được câu trả lời nên Bồ Tát đã giải thích cho họ và đã nhiếp phục được sự kiêu mạn của họ.

- Những ai được Đức Thế Tôn hỏi ba lần mà không trả lời đầu sẽ bể ra bảy mảnh.

- Bảy vị Phật quá khứĐức Phật Vipashyin, Shakyamuni, Shikhin, Vishvabhu, Krakucchanda, Kanakamuni, and Kashyapa.

- Bồ tát Maha Janaka bơi trên biển bảy ngày nhưng khi nhìn thấy trăng tròn, biết là ngày uposatha nên dùng nước biển xúc miệng và nguyện thọ trì bát quan trai giới.

- Khi Bồ tát Dhammapala được bảy tháng, vì ganh tỵ với tình thương của hoàng hậu Canda dành cho ngài, đức vua Mahapatapa đã ra lệnh chặt tay, chặt chân con mình nhưng Bồ tát vẫn không hề than khóc.

- Trong các chuyện tiền thân, Đức Bồ Tát làm đại thần bảy lần.

VỀ KINH A TỲ ĐÀM VÀ CÁC PHÁP PHẬT:

- Kinh Abhidhamma có bảy bộ (Dhammasangani, Vibhanga, Dhatukatha, Puggalapannatti, Kathavatthu, Yamaka, và Patthana)

Đức Phật thuyết giảng bộ Kathavatthu trong mười ba ngày, có bảy mươi triệu chư thiên đắc đạo.

- Đức Phật thuyết giảng bộ Yamaka trong mười tám ngày, có bảy mươi triệu chư thiên đắc quả.

- Nghĩa của chế định có bảy cách là: hình thức, hiệp thành, chúng sanh, Phương hướng, hư không, thời tiết, và tiêu biểu.

- Tâm lộ nào có bảy loại tâm khách được gọi là tâm lộ ngũ môn cảnh rất lớn.

-Lộ nhãn môn cảnh rất lớn có bảy chặng là: khai môn, nhãn thức, tiếp thâu, quan sát, đoán định, đổng lực, và na cảnh.

- Tâm quả bất thiện có bảy: Tâm nhãn thức thọ xã quả bất thiện, tâm nhĩ thức thọ xã quả bất thiện, tâm tỷ thức thọ xã quả bất thiện, tâm thiệt thức thọ xã quả bất thiện, tâm thân thức thọ xã quả bất thiện, và tâm thiếp thâu và tâm quan sát quả bất thiện.

- Sở hữu biến hành có bảy thứ: sở hữu xúc, sỡ hữu thọ, sở hữu tưởng, sở hữu tư, sở hữu định (nhất hành), sở hữu mạng quyền và sở hữu tác ý.

- Danh pháp chỉ tồn tại một sát na, sắc pháp có tuổi thọ gấp 17 lần danh pháp.

- Bảy cõi vui dục giớicõi người và 6 cõi trời dục giới.

- Có bảy loại khổ đau là: sanh, già, đau, chết, thương phải xa, ghét phải gần, và mong cầu không được.

- Tâm tham có thể tạo ra bảy ác pháp là: trộm cắp, tà hạnh trong dục lạc, nói dối, nói lưỡng thiệt, nói nhảm nhí, tham ác và kiến ác.

- Tâm sân có thể tạo ra bảy điều ác là: sát sanh, trộm cắp thuộc thân ác hạnh, bốn ngữ ác hạnh (nói dối, nói lời hung dữ, nói lưỡng thiệt, nói nhảm nhí) và ý sân ác.

- Bảy pháp thanh tịnh là: giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, đoạn nghi kiến tịnh, đạo phi đạo tri kiến tịnh, tiến hành tịnh, tri kiến tịnh.

- Bảy thất giác chi là phân tích giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, và xả giác chi.

- Nhân sanh-khởi của Trạch-pháp giác-chi có bảy điều là: học hỏi pháp thâm sâu, sạch sẽ trong vật-dụng, quân-bình năm quyền, không thân-cận người vô trí, thân-cận bậc trí, quán-xét đúng đắn pháp thâm sâu, chú tâm suy-nghiệp về trạch-pháp ấy.

- Có bảy điều làm sanh-khởi và tăng-trưởng tịnh giác-chi: thọ-dụng vật-thực tốt., thời-tiết thích-hợp, điều hòa bốn oai-nghi, giữ tâm quân-bình, thân-cận với những người có tâm dung hòa, không thân-cận với người kiêu-mạn, có khuynh-hướng về sự tĩnh-lặng.

- Giác phần có bảy: tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ quyền, ngũ lực, thất giác chi, và bát chánh đạo.

- Năng lực thần thông có bảy loại đối tượng là: đối tượng hữu hạn, đối tượng đại hành, đối tượng quá khứ, đối tượng hiện tại, đối tượng vị lai, đối tượng bên trong, và đối tượng bên ngoài.

- Có bảy thân không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, và đứng thẳng như trụ đá. Bảy thân đó là: địa thân, thủy thân, hỏa thân, phong thân, khổ, lạc, và mạng.

- Bảy pháp ngủ ngầm là: ái dục tùy miên, ái hữu tùy miên, phẫn uất tùy miên, ngã mạn tùy miên, tà kiến tùy miên, hoài nghi tùy miên, và vô minh tùy miên.

- Bảy kiết sử là: tùy tham kiết sử, sân kiết sử, kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết sử, vô minh kiết sử.

- Bảy cõi tứ thiền là: cõi quảng quả, cõi vô tưởng, và năm cõi tịnh cư (vô phiền thiên, vô nhiệt thiên, thiện hiện thiên, thiện kiến thiên, và cõi sắc cứu cánh)

- Bảy pháp kỳ diệu là Papapatikutha citta: có tâm xa lánh điều ác xấu; Pasarana citta: có tâm rộng mở; Adhimutta kalakiriya: tâm nguyện đúng thời; Visesajanattam: đặc biệt khác phần đông; Tikalannu: biết rõ thời kỳ; Pajutikala: thời kỳ sanh ra; Manussa jatiyo: tái sanh trong cõi người.

- Bảy lợi ích của thiền Tứ Niệm Xứ là: tâm được thanh lọc, chấm dứt lo âu, phiền muộn, uất ức than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm, đạt Thánh đạo, và chứng ngộ Niết Bàn.

- Cuộc kết tập Tam tạng lần thứ nhất trong suốt thời gian bảy tháng mới hoàn thành đầy đủ Tam tạng và bộ chú giải.

VỀ CÁC ĐỆ TỬ, ĐẠI THÍ CHỦCƯ SĨ VÀO THỜI ĐỨC PHẬT:

- Rahula xuất gia sa di lúc lên bảy tuổi.

- Ngài Ratthapala đã tuyệt thực bảy ngày để xin cha mẹ cho xuất gia.

- Ngài Sivali nằm trong bụng mẹ đến bảy năm, bảy ngày mới chào đời. Mẹ của ngài thỉnh chư Tăng làm phước suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy ngài hầu chuyện với đại đức Sariputta và xin xuất gia.

- Ngài Tissa do ác nghiệp đã tạo trong kiếp làm trụ trì một ngôi chùa đã bị tái sanh vào một làng chài và làng chài này đã vị hỏa hoạn bảy lần, bị vua phạt vạ bảy lần. Khi lên bảy tuổi ngài xuất gia sa di với ngài Sariputta.

- Tôn giả Mahakassapa bị bệnh tu định luôn 7 ngày để trị bệnh.

- Sa di Sopaka là vị sa di mới lên bảy tuổi đã được Đức Phật cho phép trở thành Tỳ khưu.

- Đại Đức Sa di Nirodha mới lên bảy tuổi đã tạo được đức tin đặc biệt nơi đức vua Asoka. Do đức tin này hàng ngày đức vua dâng cúng vật thực đến 600.000 tỳ khưu Tăng. 

- Lạm dụng lòng tịnh tín của đức vua Asoka, nhiều tỳ khưu giả đã chung sống lẫn lộn với tỳ khưu thật trong chùa Asokarama đến bảy năm mới bị đức vua thanh lọc.

- Vua Asoka bị sanh làm ác thú trong bảy ngày.

- Đại thí chủ Visakha đắc quả dự lưu lúc vừa bảy tuổi.

- Trước khi vấn đạo ngài Na Tiên, vua Milanda đã giữ gìn cẩn trọng tám giới trong bảy ngày và giới đầu tiên là không hành vương sự trong bảy ngày.

- Vua Ðại Thiện Kiến, có đủ bảy món báu : xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu, tướng quân báu.

- Đức Phật thấy vua Suppabuddha sẽ bị đất rút trong bảy ngày.

- Bậc Thánh Nhập Lưu chỉ tái sanh cõi người hoặc cõi trời dục giới nhiều nhất là bảy kiếp.

- Một triệu phú gia ở Sàvatthi trong tiền kiếpbố thí đồ ăn khất thực cho vị Ðộc Giác Phật tên là Tagarasikkhi. Do kết quả hành động ấy, vị ấy được sanh bảy lần lên thiện thú, Thiên giới. Do kết quả dư hưởng còn lại, vị ấy được làm nhà triệu phú bảy lần ở Sàvatthi

- Người cư sĩ chứng quả A La Hán nếu không xuất gia phải nhập niết bàn trong vòng bảy ngày.

- Bảy pháp làm cho chúng Tỷ-kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm là: thường hay tụ họptụ họp đông đảo với nhau, tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết; không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với những học giới được ban hành; tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỷ-kheo Thượng tọa và nghe theo lời dạy của những vị này; không bắt cóc, cưỡng ép các phụ nữ phải sống với mình; không bị chi phối bởi tham ái, tham ái này tác thành một đời sống khác; và tự thân an trú trong chánh niệm.

- B- Bảy pháp không đưa Tỷ-kheo đến đọa lạcTôn kính bậc Ðạo Sư, tôn kính Pháp, tôn kính Tăng, tôn kính học pháp, tôn kính định, tôn kính thiện ngôn, và tôn kính thiện bằng hữu.

- Khi vị Thánh xả thiền Diệt thọ tưởng định, năng lực của thiền này sẽ cho quả trong vòng bảy ngày.

- Vị Thánh bất lai sẽ không nhập thiền Diệt nếu thấy mình không thể sống tối thiểu được bảy ngày.

- Khi dứt sát na thứ hai thiền Phi phi tưởng phi phi tưởng xứ, danh uẩn của vị Thánh nhập thiền Diệt diệt mất trong vòng bảy ngày.

NNHỮNG CON SỐ BẢY KHÁC:

- Bảy hạng người đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời là người có câu phần giải thoát, tuệ giải thoát, thân chứng, kiến chí, tín giải thoát, tùy pháp hành, tùy tín hành.

 -Có bảy hạng người được ví dụ với nước, có mặt hiện hữu ở đời đó là: hạng người lặn một lần rồi chìm luôn, hạng người sau khi nổi lên, lại chìm xuống, hạng người sau khi nổi lên, được đứng lại, hạng người sau khi nổi lên, lại nhìn và thấy, hạng người sau khi nổi lên lại bơi tới, hạng người sau khi nổi lên, đạt được chỗ có chân đứng, hạng người sau khi nổi lên, sau khi bơi qua đến được bờ bên kia, lên đứng trên đất liền.

- Có bảy hạng vợ là: vợ như người sát nhân, vợ như người ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ, vợ như người chị, vợ như người bạn, vợ như người nữ tỳ.

- Người có đức tin có bảy đặc tính là: có tâm xả ly bố thí tài vật, mong mỏi được gặp thánh nhân, mong mỏi được nghe Phật pháp, thường có tâm hoan hỷ với việc thiện, ít khoe khoang về mình, có sự chân thật không giả dối, và tịnh tín nơi đáng tịnh tín.

- Bảy chi pháp của bạn hữu: cho những gì khó cho, làm những gì khó làm, nhẫn những gì khó nhẫn, nói lên những gì bí mật của mình, che giấu bí mật của người khác, không từ bỏ khi gặp bất hạnh, không có khinh rẻ khi tài sản khánh tận.

-Có bảy sự thù diệu vị Tỷ-kheo tha thiết hành trì học pháp và trong tương lai khát vọng hành trì học pháp; tha thiết quán Pháp và trong tương lai khát vọng quán Pháp; tha thiết nhiếp phục lòng dục, và trong tương lai khát vọng nhiếp phục lòng dục; tha thiết Thiền tịnh, và trong tương lai khát vọng Thiền tịnh; tha thiết tinh cần tinh tấn và trong tương lai khát vọng tinh cần tinh tấn; tha thiết niệm tuệ và trong tương lai khát vọng niệm tuệ; tha thiết thể nhập tri kiến và trong tương lai khát vọng thể nhập tri kiến.

- Bảy pháp thành tựu là Tỷ-kheo có lòng tin, có giữ giới, có nghe nhiều, sống Thiền tịnh, tinh cần tinh tấn, có chánh niệm, và có trí tuệ.

- Bảy pháp đưa một nam cư sĩ đến thối đọa là quên, không đến thăm Tỷ-kheo; phóng túng nghe diệu pháp; không tu tập tăng trưởng giới; ít tin tưởng các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân nhập; nghe pháp với tâm cật nạn, tìm tòi các khuyết điểm; tìm người xứng đáng cúng dường ngoài Tăng chúng; tại đấy phục vụ trước.

-Chúng sanh sinh ra từ bụng mẹ, giai đoạn đầu tiên là kalala, được mô tả là chất nhờn giống như giọt dầu mè dính trên lông con thú, rảy đi bảy lần chỉ còn một chút dính lại ở đầu lông.

-Bảy ngày kế tiếp, chất kalala phát triển thành abbuda, giống như nước máu dợt dợt.

- Bảy ngày kế tiếp, chất abudda phát triển thành pesi, giống như thịt rất mềm mại.

- Bảy sức mạnh là: Tín lực, tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.

- Bảy thánh sản là: Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.

- Bảy tư lương của định là: Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm.

 

- Bảy thứ lửa là: Lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa những vị đáng cung kính, lửa gia chủ, lửa các vị đáng cúng dường, lửa củi.

- Bảy thứ tưởng là: Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng nhàm chán đối với các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trong vô thường, tưởng vô ngã trong khổ.

- Gia đình nào thành tựu bảy chi phần: Không vui vẻ đứng dậy, không vui vẻ chào đón, không vui vẻ mời ngồi; có chỗ ngồi đem giấu đi; từ nhiều họ cho ít, từ đồ thù thắng, họ cho đồ thô xấu; họ cho khôngkính trọng, không có kính lễ, nếu vị Tỳ kheo chưa đến, thời không xứng đáng để đến; nếu đã đến, thời không xứng đáng để ngồi xuống.

- Có 7 loại cúng dường cho Tăng chúng:

1. Bố thí cho cả hai Tăng chúng (Tỳ khưu và Tỳ khưu ni) với Đức Phật là vị lãnh đạo.

2. Bố thí cho cả hai Tăng chúng, sau khi Đức Phật viên tịch (parinibbāna).

3. Bố thí cho chúng Tỳ khưu Tăng.

4. Bố thí cho chúng Tỳ khưu Ni.

5. Bố thí và nói rằng: "Mong Tăng chúng chỉ định cho tôi một số Tỳ khưu và Tỳ Khưu Ni như vầy".

6. Bố thí và nói rằng: "Mong Tăng chúng chỉ định cho tôi một số Tỳ khưu như vầy.

7. Bố thí và nói rằng: "Mong Tăng chúng chỉ định cho tôi một số Tỳ khưu Ni như vầy.

- Những con số bảy sau cùng là lời Phật dạy về quả dị thục của những công đức: Trong bảy năm Ta tu tập từ tâm, sau khi tu tập từ tâm bảy năm, trong bảy thành kiếp hoại kiếp, Ta không trở lui lại thế giới này. Khi thế giới ở trong thành kiếp, này các Tỷ-kheo, Ta đi đến thế giới Quang âm thiên. Khi thế giới ở trong kiếp đấy, này các Tỷ-kheo, Ta là Phạm thiên, là Ðại phạm thiên, vị Chiến thắng, vị Vô năng thắng, vị Biến tri, vị Tự tại. Ba mươi sáu lần, này các Tỷ-kheo, Ta là Thiên chủ Sakka. Nhiều lần bảy lần, Ta là vị Chuyển luân vương theo Chánh pháp, là vị Pháp vương, bậc Chiến thắng bốn phương, đạt được sự thanh bình cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Này các Tỷ-kheo, Ta có bảy loại châu báu này, như là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, gia chủ báu và cư sĩ báu là thứ bảy. Ta có hơn một ngàn người con trai, này các Tỷ-kheo, là những bậc anh hùng, dõng mãnh, đánh tan địch quân. Và khi Ta chiến thắng quả đất này, xa cho đến bờ biển, Ta trị vì quả đất này không dùng trượng, không dùng đao, đúng với Chánh pháp.

Đây chỉ là một phần rất nhỏ về những con số bảy rải rác trong kinh Phật mà người viết ghi nhận được. Kính xin quý đọc giả bổ túc thêm.

Như Quang

Source: Pháp Luân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15491)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13181)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19336)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24589)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15724)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37802)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13456)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13076)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17155)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13187)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17369)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21608)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13208)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14374)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12796)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13649)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28560)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23365)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34349)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28846)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32159)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11314)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11996)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26257)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17349)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14514)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34448)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13104)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12268)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13390)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40497)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26901)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14443)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13222)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13440)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12507)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13121)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12293)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11772)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12551)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17650)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12192)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12734)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18423)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14280)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12976)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11309)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12134)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13447)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10826)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11066)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10275)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28859)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25235)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26836)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25736)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18644)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22981)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34504)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32131)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant