Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tứ niệm xứ: Con đường thẳng đến Bát Nhã

11 Tháng Hai 201200:00(Xem: 34437)
Tứ niệm xứ: Con đường thẳng đến Bát Nhã
 

Trong kinh TỨ NIỆM XỨ, ngay vào đầu kinh, đức Phật xác định TỨ NIỆM XỨcon đường độc nhất để đi đến chứng ngộ NIẾT BÀN như sau:

“Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.”

Nói như thế có nghĩa là không có con đường nào khác để đi đến NIẾT BÀN ngoài TỨ NIỆM XỨ

Tại sao lại không thể là con đường nào khác?

-- Tại vì TỨ NIỆM XỨphương cách để tìm hiểu THỰC TƯỚNG và GỐC CỘI KHỔ ĐAU của chính mình.

Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình. Bắt buộc các ngài phải đi xuyên qua sự tìm hiểu về mình và gốc cội khổ đau của mình trước khi nhổ sạch gốc cội khổ đau để chứng nhập Niết Bàn. TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH chính là thực hành TỨ NIỆM XỨ. Đức Bổn Sư Thích Ca cũng đã đi qua con đường tìm hiểu chính mình như thế trước khi thành đạo:

153. Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.

154. Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Người không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong

(kinh Pháp Cú)

“Tâm ta đạt tịch diệt, Tham ái thảy tiêu vong” đó là lúc đức Thích Ca chứng nhập Niết Bàn.

Nhưng NIẾT BÀN là thế nào?

-- NIẾT BÀN là sự TẬN DIỆT KHỔ ĐAU.

Đó chính là DIỆT ĐẾ, là sự thật số 3 ở trong TỨ DIỆU ĐẾ. Đó cũng là lúc mà Bồ tát Quán Tự Tại ở trong kinh BÁT NHÃ tuyên bố: “Thoát mọi khổ đau ách nạn”.

Sau đây là đoạn đầu của kinh BÁT NHÃ, với 4 phân đoạn nhỏ có đánh số để tiện việc giải thích.

1. Bồ tát Quán Tự Tại

khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã ba la mật.

2. Bỗng soi thấy 5 uẩn

đều không có tự tánh.

3. Chứng thực điều ấy xong

ngài vượt thoát tất cả

mọi khổ đau ách nạn.

4. Nghe đây Xá Lợi Tử:

SẮC chẳng khác gì KHÔNG

KHÔNG chẳng khác gì SẮC

SẮC chính thực là KHÔNG

KHÔNG chính thực là SẮC

Còn lại bốn uẩn kia,

Cũng đều như vậy cả.

 

Qua 4 phân đoạn ở trên ta thấy tiến trình để đắc chứng TRÍ TUỆ BÁT NHÃ là như sau:

  1. Bồ tát QUÁN TỰ TẠI thực hành MINH SÁT TUỆ (hành thâm Bát Nhã) cũng là TỨ NIỆM XỨ để chiếu kiến 5 uẩn (các pháp tạo nên con người của ta). Lý do có cụm từ “hành thâm Bát Nhã” là vì khi chiếu kiến ngũ uẩn, Bồ Tát phải dùng trí tuệ soi suốt tận gốc rễ (thâm sâu) của tư tưởng, của tâm thức, của thân xác, cùng những liên hệ sâu xa giữa những biến động của các pháp. Ví dụ sự liên hệ giữa Thức và Tưởng.
  1. Rồi ngài phát hiện 5 uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) đều VÔ NGÃ vì thấy tất cả chúng đều DO DUYÊN SANH, do các pháp khác mà sanh, chẳng phải do ta, chẳng có thành phần nào là của ta, là ta cả. Từ đó thấy mình không là bất cứ cái gì, thấy mình không thực sự hiện hữu (sẽ giải thích thêm ý nghĩa này ở dưới). 
  1. Do thấy mình không còn hiện hữu nên ra ngoài mọi khổ đau tức chứng đắc NIẾT BÀN tịch diệt. Sự kiện này cũng giống như sau khi các ngài Kiều Trần Như nghe Đức Phật thuyết pháp về kinh VÔ NGÃ tướng rồi đắc được quả vị A LA HÁN để hoàn toàn được giải thoát.
  1. Sau đó với tuệ giác VÔ NGÃ ngài thấy bản chất các pháp là “CHƠN KHÔNG”. Ý nghĩa CHƠN KHÔNG được giải thích như sau:

CHƠN KHÔNG là cái KHÔNG luôn luôn chơn thật thường hằng, không phải lúc có lúc mất. Cái KHÔNG này là cái KHÔNG vô diều kiện, không đòi hỏi phải mất mới được KHÔNG. Như vậy thì cái KHÔNG này là cái KHÔNG ở ngay trên cái . (SẮC tức thị KHÔNG, KHÔNG tức thị SẮC, SẮC bất dị KHÔNG). Tức cũng cũng KHÔNG cùng một lúc.

Để có thể hình dung thế nào là KHÔNG ngay trên CÓ ta có thể lấy ví dụ những thứ SẮC thấy trong giấc mơ, hoặc những hình SẮC thấy trên màn ảnh movie, do ánh sáng tạo thành. Tất cả những thứ SẮC đó tuy gọi là SẮC mà chẳng khác gì KHÔNG.

Tuy nhiên muốn hiểu CHƠN KHÔNG của các pháp một cách chính xác phải chứng thực CHƠN KHÔNG trên chính mình trước, bằng sự thực chứng VÔ NGÃ. Muốn thực chứng VÔ NGÃ thì phải thực hành TỨ NIỆM XỨ quán sát 5 uẩn của ta, theo dõi sự sinh diệt của chúng để thấy tất cả chúng đều DO DUYÊN SANH (do các pháp khác mà sanh) chẳng phải do ta, chẳng phải của ta, chẳng phải là ta.

Ví dụ khi ta quan sát sự THỞ cho thật kỷ, ta sẽ thấy sự thở vô thở ra chẳng phải do ta gì cả, mà tự thân nó phải thở. Cho nên chẳng phải “TÔI THỞ” như ta thường tuyên bố từ xưa nay. Thở chỉ là một sự giao động tương tác giữa các pháp hữu vi.

Khi quan sát mọi phần khác của thân và của tâm ta cũng đều thấy “do duyên sinh” như thế. Thấy như thế để chính mình chứng thực ta không có gì cả, ta không là gì cả. Đó là lúc thấy rõ sự thật VÔ NGÃ không còn chút nghi ngờ.

Thấy được VÔ NGÃ như thấy một sự thật như thế gọi là GIÁC NGỘ bằng TRÍ TUỆ (có CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY) chứ không phải thấy qua FEELING hay bằng VÔ NIỆM (dập tắt ý niệm về NGÃ). Khi thấy VÔ NGÃ như là một sự thật như thế thì bền chắc hơn loại VÔ NGÃ của Ý Niệm hoặc Feeling.

Tuy nhiên bằng CHÁNH TƯ DUY ta có thể suy luận thêm rằng dầu ta thấy ta là KHÔNG, cũng không thể nói ta là KHÔNG vì ta có sự GIÁC BIẾT các pháp, chứng tỏ ta có sự hiện hữu. Đây là một sự hiện hữu ngoài ngũ uẩn, ngoài các pháp hữu vi, ngoài sự sống và chết. Đó là điều mà đức Phật đã nói ở trong Tiểu Bộ kinh:

“Này các Tỷ-kheo, có sự không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi.

Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi.

Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có sự trình bày xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi.”

Như vậy ta thấy ta cũng KHÔNG mà cũng CÓ. Đó chính là sự chứng nghiệm CHƠN KHÔNG của BÁT NHÃ. Sau khi đã thấy ta là CHƠN KHÔNG (vừa CÓ vừa KHÔNG) thì ngay trên KHỔ ta cũng thấy KHÔNG KHỔ. Như vậy là vừa thấy KHỔ mà vừa thấy NIẾT BÀN (không KHỔ). Khi NIẾT BÀNthể hiện diện ngay trên KHỔ như thế, thì đó là NIẾT BÀNđiều kiện. Vô điều kiện thì có nghĩa là thường hằng không mất mát. Mà như thế mới là NIẾT BÀN chân thật (như là một sự thật vĩnh cữu).

Nói như thế có nghĩa rằng nếu ai muốn trốn tránh sự KHỔ hoặc đòi hỏi KHỔ phải biến mất trước để có NIẾT BÀN thì người đó không hề đạt được NIẾT BÀN chân thật mà chỉ có một loại sung sướng tạm bợ giả dối nào đó mà thôi.

Như vậy thì NIẾT BÀN cũng như VÔ NGÃ là những SỰ THẬT thường hằng khám phá ra bằng trí tuệ qua các tiến trình CHÁNH NIỆM, CHÁNH KIẾNCHÁNH TƯ DUY. Nếu khôngCHÁNH NIỆM, CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY thì sẽ không chứng thực được sự thật VÔ NGÃNIẾT BÀN.

Với một bậc đã có tuệ VÔ NGÃ, khi sống trong KHỔ thì chỉ “thấy khổ” (như thấy một màu sắc ở bên ngoài ta) chứ “không Khổ” (không có sự cảm thọ khổ vào bên trong ta). Rồi nhờ đã chấm dứt khổ đau, không còn bị pháp nào làm khổ” nên mới thấy các pháp BÌNH ĐẲNG. Do đó mới “không nhơ, không sạch”.

Cũng vậy, sau khi đã chứng ngộ vạn pháp VÔ NGÃ, thì thấy chưa hề có VÔ MINH CHẤP NGÃ. Do đó mới có những lời kinh:

Không hề có VÔ MINH

Không có HẾT VÔ MINH

Cho đến không GIÀ CHẾT

Cũng không HẾT GIÀ CHẾT

Không KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO

Không TRÍ, cũng không ĐẮC.

Vì có NGÃ CHẤP mới có VÔ MINH, mới có KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO để cho cái NGÃ tìm đường giải thoát. Khi đã giác ngộ xưa nay các pháp đều VÔ NGÃ thì chưa hề có VÔ MINH, chưa hề có KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. Đó là lý do có câu Không KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO ở trong kinh BÁT NHÃ.

Chứ câu đó không có nghĩa rằng pháp TỨ ĐẾ là pháp thấp thỏi của hàng NHỊ THỪA, hạ căn hạ trí như các tổ Thiền tông TQ hay tuyên truyền. Chê bai như vậy sai trái vô cùng. Do chưa chứng Bát Nhã mới hiểu lầm kinh như thế. Họ không biết rằng TỨ ĐẾpháp chỉ có một bậc CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC mới có thể thấu triệt mà thôi (xem kinh Chuyển Pháp Luân). Như vậy thì làm sao TỨ ĐẾ có thể là pháp thấp thỏi được.

Thêm một điều nữa, khi còn NGÃ CHẤP thì mới có GIÀ CHẾT nhưng khi đã giác ngộ VÔ NGÃ thì GIÀ CHẾT chỉ là sự trôi chảy của các pháp hữu vi, không dính dáng gì đến ta, cho nên “không có già chết” mà cũng “không hết già chết”. Vì sau khi chứng ngộ VÔ NGÃ thì các pháp hữu vi vẫn trôi chảy từ trẻ, tới già, rồi chết, không có gì thay đổi.

Nói tóm lại muốn chứng ngộ BÁT NHÃ phải thực hành TỨ NIỆM XỨ quán chiếu Thân, Thọ, Tâm, Pháp, để thấy “ngủ uẩn giai không” để thực chứng VÔ NGÃ. Có chứng VÔ NGÃ rồi mới có thể diễn tả KHÔNG TÁNH của Bát Nhã một cách chính xác như một sự thật đã được chứng kiến rõ ràng.

Cho nên người Phật tử phải biết rằng không thực hành pháp CHÁNH NIỆM, TỨ NIỆM XỨ thì không thể có sự chứng ngộ, không thể có được trí tuệ BÁT NHÃ. Trong Tương Ưng bộ kinh, Phật đã giảng rằng, nơi nào thời nào mất TỨ NIỆM XỨ thì nơi đó thời đó sẽ không có người chứng ngộ rồi giáo pháp sẽ suy tàn

Trái lại nơi nào, thời nào, còn có người thực hành TỨ NIỆM XỨ thì sẽ có nhiều bậc chứng ngộ để làm giáo pháp càng thêm sung mãn. Xem trọn lời Phật giảng ở đây: http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21393_5-15_6-1_17-672_14-2_15-2/su-ton-tai-cua-dieu-phap.html

Vì pháp TỨ NIỆM XỨ quá quan trọng như thế cho nên trước khi nhập Niết bàn Đức Phật đã căn dặn ngài A NAN rằng sau khi Như lai diệt độ hãy nương pháp TỨ NIỆM XỨ mà tu. Lời dặn này có ghi rõ trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN của cả Đại Thừa lẫn Nguyên Thủy.

Về sau Bồ tát LONG THỌ, trong ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN, tập III, cuốn 48, cũng nhắc lại lời dạy của Phật trong kinh ĐẠI BÁT NHÃ (của Đại Thừa) rằng: “Bốn Niệm XứĐại Thừa của Bồ Tát”. Có nghĩa rằng mất TỨ NIỆM XỨ là mất Đại Thừa. và điều đó đã và đang xảy ra ở Trung Hoa.

http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3323_5-50_6-1_17-45_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

Khổ thay, các tổ Thiền Tông Trung Hoa do sự hiểu lầm tưởng Trí Bát Nhã là trí VÔ PHÂN BIỆT, nên đã thay thế pháp CHÁNH NIỆM (có sự phân biệt) bằng pháp VÔ NIỆM để tâmthể đạt ngay trình độ “vô phân biệt”. Nhưng các tổ đã không biết rằng loại Bát Nhã như vậy là loại BÁT NHÃ “áp đặt” của TƯ TƯỞNG, còn trong vòng NGŨ UẨN, chứ không phải là TRÍ BÁT NHÃ ở cấp độ VÔ NGÃ đã ra ngoài ngũ uẩn.

Phải biết rằng BÁT NHÃ là sự chứng ngộ, là “điểm đến” của NIẾT BÀN chứ không phải là “con đường đi”. Do đó ai cố uốn nắn tâm theo sự thấy của Bát Nhã, để được “tức khắc giải thoát”, là tu lấy đuôi làm đầu. Tu kiểu đó là đi ngược chiều giác ngộ.

Đừng tưởng một bậc chứng ngộ Bát Nhã trở thành VÔ PHÂN BIỆT, để rồi muốn “đốn ngộ” ngay đến sự VÔ PHÂN BIỆT đó bằng cách coi NHƠ cũng như SẠCH, coi ÁC cũng như THIỆN. Tu tập như thế thì chỉ có thêm bệnh hoạn, và có ngày sẽ bị vào tù. Nên nhớ rằng, khi chúng ta còn vô minh chấp ngã, chưa chấm dứt khổ đau, thì không thể bắt chước cái nhìn bình đẳng của một bậc VÔ NGÃ mà đối xử với các pháp được.

Các bậc chứng ngộ vẫn luôn luôn có trí phân biệt. Vì PHÂN BIỆT là khả năng của TRÍ TUỆ. Hễ có GIÁC BIẾT là phải có sự PHÂN BIỆT. Không có sự phân biệt thì chẳng còn nhận ra được cái gì. Chỉ có kẻ hôn mê mới không còn khả năng phân biệt. Nếu các ngài không còn Phân Biệt thì làm sao biết mình đã giác ngộ? Đương nhiên các ngài vẫn còn phân biệt ĐÚNG/ SAI, CHÁNH/ TÀ để hướng dẫn chúng sanh. Tu hành cũng phải có khả năng phân biệt để nhận ra được các sự thật như DUYÊN KHỞI, 12 NHÂN DUYÊN, TAM PHÁP ẤN, TỨ ĐẾ thì mới có thể đắc đạo.

Rất mong bài này sẽ giúp cho nhiều phật tử VN tỉnh thức, trở về chuyên tu pháp CHÁNH NIỆM TỨ NIỆM XỨ để sớm đắc chứng BÁT NHÃ. Được như thế thì DIỆU PHÁP của Phật sẽ càng ngày càng sung mãn trên đất nước VN; Để rồi Phật tử VN còn giúp cho Trung Hoa phục hồi lại CHÁNH PHÁP của Phật.

 

Nam mô CHÁNH TINH TẤN Bồ Tát Ma Ha Tát
Ý kiến bạn đọc
03 Tháng Mười Hai 201423:06
Khách
Bạn GS001 ngày viết càng rõ ràng . Rất hay !!!
05 Tháng Bảy 201207:00
Khách
Bài viết rất hay & rất chính xác.
14 Tháng Hai 201208:00
Khách

Nếu bài trên có vẻ khó hiểu để đọc, quí đạo hữu nên đọc bài THIỀN VÀ CHÁNH NIỆM trước tại link này:

http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21316_15-2/thien-va-chanh-niem.html
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14616)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14595)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14029)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14920)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16533)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29844)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16189)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15520)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14861)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14854)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17854)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15550)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38617)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26693)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39611)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50712)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38699)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 34997)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18274)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16441)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42358)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39201)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35569)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17437)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46472)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17129)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28474)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18966)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17565)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17088)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17525)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16503)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16850)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30797)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16919)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18478)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18425)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17365)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18137)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17046)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23437)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16968)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17441)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17634)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17043)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15713)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18003)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17369)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17160)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29474)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27672)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18143)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16084)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15327)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22980)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14804)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55074)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14170)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13231)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14147)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant