Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Kalama: Tiếng chuông cảnh tỉnh thiền tông Việt Nam

17 Tháng Hai 201200:00(Xem: 34170)
Kinh Kalama: Tiếng chuông cảnh tỉnh thiền tông Việt Nam

KINH KALAMA

TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH THIỀN TÔNG VIỆT NAM

GS001

Kinh KALAMA là một kinh mà bây giờ đang được các học giả đông tây kính nể. Họ không ngờ Phật là một vị giáo chủtinh thần thông khoáng không bắt buộc tín đồ chấp nê giáo điều một cách tuyệt đối như các tôn giáo khác. Đại khái kinh này có những lời khuyên của Phật như sau:

Này các Kàlàmà, "Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình."

Xin vào link dưới đây để đọc cho đầy đủ cả Việt Ngữ lẫn Anh Ngữ về bản kinh KALAMA:

http://hoavouu.com/D_1-2_2-57_4-21661_15-2/kinh-kalama.html

Đại khái ta thấy trong kinh Kalama Phật đã khuyên nhủ những điều mà người đời thường ưa phạm phải: Đừng vội tin vì điều đó được nói ra bởi một vị danh tiếng. (ví dụ như các Thiền sư Trung Hoa). Đừng vội tin vì điều đó được số đông người theo (ví dụ như Hồi giáo, Kitô giáo). Đừng vội tin vì điều đó được truyền thống xưa nay đã theo như vậy (ví dụ luân lý Khổng giáo).


Tại sao tôi muốn đem kinh KALAMA ra đây để nói chuyện với giới Thiền Tông?

-- Tại vì tôi muốn cảnh tỉnh Phật tử Thiền Tông qua hai câu chuyện thiền sau đây


QUE CỨT KHÔ

Có tăng nhân hỏi thiền sư VÂN MÔN:

-- Phật là gì?

sư đáp

-- Que cứt khô

(cái que để chùi đít).

 

GIẤY ĐI CẦU

Trong đám tăng chúng của Thiền sư Bạch Ẩn có một cuồng tăng, cho rằng mình đã ngộ và đồng nhất với Phật. Y xé kinh làm giấy đi cầu. Các tăng nhân khác đã cảnh cáo ông ta về chuyện này, nhưng ông tăng điên này không quan tâm, kiêu căng vặn lại: “Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai?”

Lúc ấy có người thuật lại chuyện này với Bạch Ẩn, sư hỏi ông ta: “Người ta nói ông dùng kinh Phật làm giấy đi cầu, có phải không?”

Ông tăng điên đáp: “Phải. Tôi chính là Phật. Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai?”

Bạch Ẩn nói: “Ông sai rồi. Vì chính là đít Phật, sao ông lại dùng giấy cũ có chữ viết trên đó? Ông nên dùng giấy trắng sạch lau mới phải chứ.”

Ông tăng điên xấu hổxin lỗi

Nguồn: http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21628_5-15_6-1_17-683_14-2_15-2/#nl_detail_bookmark

* * * * *

 

Những câu chuyện đó, hiện nay trên các diễn đàn tôn giáo, được ngoại đạo khai thác triệt để để phỉ bàng Phật, phỉ báng Pháp trước các độc giả chưa có kiến thức về Phật giáo. Tuy nhiên đối với tôi, điều đó chưa đáng quan tâm. Sự quan trọng hơn, Phật tử Thiền Tông cần điều chỉnh phương cách tu hành cho đúng CHÁNH ĐẠO của Phật để mới có thể đi đến sự giác ngộ chân thật trước khi cuộc đời tàn lụi. Có rất nhiều câu chuyện thiền chứng tỏ Thiền Tông đã đi sai CHÁNH PHÁP. Tôi sẽ không ngại ngùng tranh luận về điều này với quí thầy, quí Phật tử Thiền Tông ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ diễn đàn nào, trong tinh thần “Kiến hòa đồng giải”. Nếu tôi sai, dĩ nhiên tôi sẽ xin sám hốicảm ơn.

Trở về lại 2 câu chuyện ở trên, nếu kẻ nào dạy cho đệ tử rằng ngộ rồi có thể đem kinh Phật ra lau đít, thì phải biết kẻ đó là kẻ Ngu Si. Vì nếu ngộ rồi thì càng phải thấy CHÁNH PHÁP và PHẬT quí giá và đáng tôn kính nhiều hơn nữa. Xưa kia Phật Thích Ca, sau giây phút cô đơn trong ngày thành Phật, vì không thấy có ai từ cõi trời cho đến cõi người hơn mình, ngài đã đi đến quyết định tôn thờ CHÁNH PHÁP.

Bồ tát PHỔ HIỀN, dầu cũng là bậc đã chứng ngộ, và đã tạo vô lượng công đức, vẫn LỄ KÍNH CHƯ PHẬT, XƯNG TÁN NHƯ LAI, ... còn hơn một Phật tử bình thường (xem 10 hạnh Phổ Hiền). Làm gì có chuyện chứng ngộ rồi coi giáo pháp của Phật như rơm rác. Cho nên chưa chứng ngộ hay chứng ngộ rồi đều phải tôn kính PHẬT, PHÁP, và TĂNG (những vị tu hành đúng theo CHÁNH PHÁP) một cách tuyệt đối.

Qua những câu chuyện về các Thiền sư Trung Hoa, ai cũng thấy không một tông phái nào trong Phật giáo lại sản xuất ra nhiều "TĂNG THƯỢNG MẠN" coi PHẬT không ra gì như Thiền Tông Trung Hoa. Trong phần kế tiếp, tôi sẽ chứng minh rằng họ kiêu ngạo chỉ do U MÊ chứ chẳng có gì để đáng tự hào cả. Tiếc thay rất nhiều Phật tửThiền sư VN đã có một qui ngưỡng quá đáng đến độ gần như nô lệ tâm linh với các Thiền sư Trung Quốc. Số người VN này suy tôn, nhắc nhở đến các thiền sư TQ còn hơn nhắc nhở đến Phật và những lời dạy của Phật.

 

DO ĐÂU THIỀN TÔNG TQ SẢN XUẤT RA CUỒNG TĂNG?

(như câu chuyện ở trên)

 

-- Tại vì sự tu hành của Thiền Tông đã bỏ mất CHÁNH KIẾN

Họ chủ trương "DẸP BỎ TRI KIÊN" để hỗ trợ cho pháp tu "VÔ NIỆM".

 

Trong câu chuyện thứ hai, cái câu của thiền sư BẠCH ẨN "dùng giấy trắng sạch mới phải (là kinh Phật)" chứng tỏ quan kiến "dẹp bỏ tri kiến" của Thiền tông. Cũng chính vì chủ trương "dẹp bỏ tri kiến" mà dân Thiền Tông có câu “GẶP PHẬT CHÉM PHẬT”. Ấy thế tôi chưa hề nghe dân Thiền Tông VN dám nói “GẶP TỔ CHÉM TỔ” bao giờ cả. Phải chăng vì “mã tấu” của mấy ông Tổ TQ quá bự?

Đáng lý ra các Thiền sư Trung Hoa nếu có trí tuệ thì phải biết rằng, trong các ĐẠO TRÍ TUỆ, những CHÁNH KIẾN, những kiến thức đúng với SỰ THẬT, thì không bao giờ có thể bỏ được. Ví dụ LUẬT NHÂN QUẢ, tánh VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ của các pháp hữu vi là những sự thật bất sanh bất diệt, đúng trong khắp không gian, khắp thời gian. Không có PHẬT hay BỒ TÁT nào chối bỏ những văn tự ghi chép các CHÁNH KIẾN như thế. Ai chối bỏ hay muốn quên những CHÁNH KIẾN đó chắc chắn không thể thành PHẬT.

Ngay trong khoa học, thử hỏi rằng, với một người nông phu, không có kiến thức khoa học, khi thấy trái táo rơi, có thể nghĩ đến sức hút quả đất, định luật về TRỌNG LỰC (gravity) như ông NEWTON hay không? Chắc chắn là không, vì ông nông phu chưa hề có chút “chánh kiến” nào về khoa học để có thể “chánh tư duy” về sức hút quả đất. (Chữ “chánh” ở đây tôi tạm dùng cho khoa học với tinh thần “đúng sự thật”).

Khoa học muốn phát triển, muốn tăng thêm phát minh, muốn tăng thêm khám phá, thì phải dùng đến những "Chánh kiến" (đúng sự thật) đã có từ trước. Những gì đã được xác nhận đúng sự thật, thì không thể bỏ. Trong toán học cũng vậy. Muốn chứng minh một vấn đề gì mới cao hơn, sâu hơn, người ta phải đặt nền tảng của sự chứng minh trên những định đề, định lý, hệ luận, đã được chứng minh rồi. (Dĩ nhiên không thể dựa trên những định lý đã được chứng minh sai, vì những thứ đó đã được coi như TÀ KIẾN, sai với sự thật).

Đạo Phật cũng như vậy, nếu khônggia tài kiến thức về những CHÁNH KIẾN, đúng với sự thật, mà Phật và các đấng giác ngộ đã từ bi trao truyền cho, như LUẬT NHÂN QUẢ, LÝ NHÂN DUYÊNTỨ ĐẾ, BÁT CHÁNH ĐẠO, 12 NHÂN DUYÊN, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, v.v. thì Phật tử không thể tiến xa và tiến nhanh trong đạo giải thoát. Đó là chưa nói rằng khi tu hành có 2 thứ, THAM ÁI và NGÃ CHẤP, rất dễ đưa hành giả đi lạc theo TÀ KIẾN, TÀ ĐẠO. Do đó cần có đủ CHÁNH KIẾN để hộ thân.

Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi. Vô số Phật tử TÀU, VN, vì thiếu BÁT CHÁNH ĐẠO mà bây giờ đã trở thành mê tín dị đoan?


Thêm một ví dụ cụ thể về sự cần có CHÁNH KIẾN trong thực hành Thiền TỨ NIỆM XỨ: Nếu một Phật tử chưa có những CHÁNH KIẾN về LÝ DUYÊN KHỞI để biết "CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH" thì khi "hành thâm Bát Nhã" để chiếu kiến ngŨ uẩn, sẽ không có đủ vốn liếng để CHÁNH TƯ DUY; Do đó sẽ khó giác ngộ được sự thật VÔ NGÃ bằng đường lối Trí Tuệ. Xin xem thêm các bài TỨ NIỆM XỨ: CON ĐƯỜNG THẰNG ĐI ĐẾN BÁT NHÃ và bài THIỀN VÀ CHÁNH NIỆM ở các link sau đây, cùng với những lời góp ý:

http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21508_5-15_6-1_17-683_14-2_15-2/tu-niem-xu-con-duong-thang-den-bat-nha.html

http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21316_5-15_6-1_17-683_14-2_15-2_18-2/#comment_list

Cho nên người Phật tử muốn tiến lên trong sự tu học, bắt buộc phải học đầy đủ BÁT CHÁNH ĐẠO để có đầy đủ GIỚI, ĐỊNH, HUỆ. Trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, trước khi nhập diệt Phật đã khẳng định sự cần thiết BÁT CHÁNH ĐẠO rõ ràng như sau:

Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhứt Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong Pháp và Luật này có Bát Thánh Ðạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán. (Trường Bộ Kinh, Phẩm 16-Kinh Đại Bát Niết Bàn)

 

KẾT LUẬN: Cũng bởi Thiền Tông Trung Hoa tu hành dẹp bỏ các CHÁNH KIẾN của Phật, không theo đầy đủ BÁT CHÁNH ĐẠO của Phật, không thực hành CHÁNH NIỆM của Phật mà lại chỉ muốn tập tành pháp VÔ NIỆM không cần xử dụng đến CHÁNH TƯ DUY, do đó mà Phật giáo Trung Hoa, cũng như Nhật Bản, cũng như Đại Hàn, mới đi đến sự suy tàn như ngày hôm nay.

Nhớ lại xưa kia, đức vua Trần Nhân Tông, Tổ Thiền Tông VN, đã đắp y áo Nguyên Thủy giống như PHẬT mà không theo y áo của các Thiền sư Trung Hoa. Phải chăng hình ảnh đó là một lời nhắn nhủ để lại cho Phật tử VN rằng: Hãy xây đựng Thiền Tông VN đúng với CHÁNH PHÁP của PHẬT. Chấm dứt sự nô lệ tâm linh vào TQ để tránh vết xe đổ của Thiền tông Trung Hoa. 


blank

Nam mô CHÁNH TINH TẤN Bồ tát ma ha tát.

Ý kiến bạn đọc
16 Tháng Mười Hai 201208:00
Khách
dung nen nhin mot khia canh nao do de danh gia mot hien tuong su vat nao. mot ruong lua thi co tot co xau
03 Tháng Mười 201207:00
Khách
Ganh nang cua hoc kinh sach qua nhieu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 48)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 164)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 311)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 387)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 680)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 494)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 590)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 712)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1391)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1402)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1752)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1523)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1393)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1376)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant