Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Kalama: Tiếng chuông cảnh tỉnh thiền tông Việt Nam

17 Tháng Hai 201200:00(Xem: 34164)
Kinh Kalama: Tiếng chuông cảnh tỉnh thiền tông Việt Nam

KINH KALAMA

TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH THIỀN TÔNG VIỆT NAM

GS001

Kinh KALAMA là một kinh mà bây giờ đang được các học giả đông tây kính nể. Họ không ngờ Phật là một vị giáo chủtinh thần thông khoáng không bắt buộc tín đồ chấp nê giáo điều một cách tuyệt đối như các tôn giáo khác. Đại khái kinh này có những lời khuyên của Phật như sau:

Này các Kàlàmà, "Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình."

Xin vào link dưới đây để đọc cho đầy đủ cả Việt Ngữ lẫn Anh Ngữ về bản kinh KALAMA:

http://hoavouu.com/D_1-2_2-57_4-21661_15-2/kinh-kalama.html

Đại khái ta thấy trong kinh Kalama Phật đã khuyên nhủ những điều mà người đời thường ưa phạm phải: Đừng vội tin vì điều đó được nói ra bởi một vị danh tiếng. (ví dụ như các Thiền sư Trung Hoa). Đừng vội tin vì điều đó được số đông người theo (ví dụ như Hồi giáo, Kitô giáo). Đừng vội tin vì điều đó được truyền thống xưa nay đã theo như vậy (ví dụ luân lý Khổng giáo).


Tại sao tôi muốn đem kinh KALAMA ra đây để nói chuyện với giới Thiền Tông?

-- Tại vì tôi muốn cảnh tỉnh Phật tử Thiền Tông qua hai câu chuyện thiền sau đây


QUE CỨT KHÔ

Có tăng nhân hỏi thiền sư VÂN MÔN:

-- Phật là gì?

sư đáp

-- Que cứt khô

(cái que để chùi đít).

 

GIẤY ĐI CẦU

Trong đám tăng chúng của Thiền sư Bạch Ẩn có một cuồng tăng, cho rằng mình đã ngộ và đồng nhất với Phật. Y xé kinh làm giấy đi cầu. Các tăng nhân khác đã cảnh cáo ông ta về chuyện này, nhưng ông tăng điên này không quan tâm, kiêu căng vặn lại: “Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai?”

Lúc ấy có người thuật lại chuyện này với Bạch Ẩn, sư hỏi ông ta: “Người ta nói ông dùng kinh Phật làm giấy đi cầu, có phải không?”

Ông tăng điên đáp: “Phải. Tôi chính là Phật. Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai?”

Bạch Ẩn nói: “Ông sai rồi. Vì chính là đít Phật, sao ông lại dùng giấy cũ có chữ viết trên đó? Ông nên dùng giấy trắng sạch lau mới phải chứ.”

Ông tăng điên xấu hổxin lỗi

Nguồn: http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21628_5-15_6-1_17-683_14-2_15-2/#nl_detail_bookmark

* * * * *

 

Những câu chuyện đó, hiện nay trên các diễn đàn tôn giáo, được ngoại đạo khai thác triệt để để phỉ bàng Phật, phỉ báng Pháp trước các độc giả chưa có kiến thức về Phật giáo. Tuy nhiên đối với tôi, điều đó chưa đáng quan tâm. Sự quan trọng hơn, Phật tử Thiền Tông cần điều chỉnh phương cách tu hành cho đúng CHÁNH ĐẠO của Phật để mới có thể đi đến sự giác ngộ chân thật trước khi cuộc đời tàn lụi. Có rất nhiều câu chuyện thiền chứng tỏ Thiền Tông đã đi sai CHÁNH PHÁP. Tôi sẽ không ngại ngùng tranh luận về điều này với quí thầy, quí Phật tử Thiền Tông ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ diễn đàn nào, trong tinh thần “Kiến hòa đồng giải”. Nếu tôi sai, dĩ nhiên tôi sẽ xin sám hốicảm ơn.

Trở về lại 2 câu chuyện ở trên, nếu kẻ nào dạy cho đệ tử rằng ngộ rồi có thể đem kinh Phật ra lau đít, thì phải biết kẻ đó là kẻ Ngu Si. Vì nếu ngộ rồi thì càng phải thấy CHÁNH PHÁP và PHẬT quí giá và đáng tôn kính nhiều hơn nữa. Xưa kia Phật Thích Ca, sau giây phút cô đơn trong ngày thành Phật, vì không thấy có ai từ cõi trời cho đến cõi người hơn mình, ngài đã đi đến quyết định tôn thờ CHÁNH PHÁP.

Bồ tát PHỔ HIỀN, dầu cũng là bậc đã chứng ngộ, và đã tạo vô lượng công đức, vẫn LỄ KÍNH CHƯ PHẬT, XƯNG TÁN NHƯ LAI, ... còn hơn một Phật tử bình thường (xem 10 hạnh Phổ Hiền). Làm gì có chuyện chứng ngộ rồi coi giáo pháp của Phật như rơm rác. Cho nên chưa chứng ngộ hay chứng ngộ rồi đều phải tôn kính PHẬT, PHÁP, và TĂNG (những vị tu hành đúng theo CHÁNH PHÁP) một cách tuyệt đối.

Qua những câu chuyện về các Thiền sư Trung Hoa, ai cũng thấy không một tông phái nào trong Phật giáo lại sản xuất ra nhiều "TĂNG THƯỢNG MẠN" coi PHẬT không ra gì như Thiền Tông Trung Hoa. Trong phần kế tiếp, tôi sẽ chứng minh rằng họ kiêu ngạo chỉ do U MÊ chứ chẳng có gì để đáng tự hào cả. Tiếc thay rất nhiều Phật tửThiền sư VN đã có một qui ngưỡng quá đáng đến độ gần như nô lệ tâm linh với các Thiền sư Trung Quốc. Số người VN này suy tôn, nhắc nhở đến các thiền sư TQ còn hơn nhắc nhở đến Phật và những lời dạy của Phật.

 

DO ĐÂU THIỀN TÔNG TQ SẢN XUẤT RA CUỒNG TĂNG?

(như câu chuyện ở trên)

 

-- Tại vì sự tu hành của Thiền Tông đã bỏ mất CHÁNH KIẾN

Họ chủ trương "DẸP BỎ TRI KIÊN" để hỗ trợ cho pháp tu "VÔ NIỆM".

 

Trong câu chuyện thứ hai, cái câu của thiền sư BẠCH ẨN "dùng giấy trắng sạch mới phải (là kinh Phật)" chứng tỏ quan kiến "dẹp bỏ tri kiến" của Thiền tông. Cũng chính vì chủ trương "dẹp bỏ tri kiến" mà dân Thiền Tông có câu “GẶP PHẬT CHÉM PHẬT”. Ấy thế tôi chưa hề nghe dân Thiền Tông VN dám nói “GẶP TỔ CHÉM TỔ” bao giờ cả. Phải chăng vì “mã tấu” của mấy ông Tổ TQ quá bự?

Đáng lý ra các Thiền sư Trung Hoa nếu có trí tuệ thì phải biết rằng, trong các ĐẠO TRÍ TUỆ, những CHÁNH KIẾN, những kiến thức đúng với SỰ THẬT, thì không bao giờ có thể bỏ được. Ví dụ LUẬT NHÂN QUẢ, tánh VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ của các pháp hữu vi là những sự thật bất sanh bất diệt, đúng trong khắp không gian, khắp thời gian. Không có PHẬT hay BỒ TÁT nào chối bỏ những văn tự ghi chép các CHÁNH KIẾN như thế. Ai chối bỏ hay muốn quên những CHÁNH KIẾN đó chắc chắn không thể thành PHẬT.

Ngay trong khoa học, thử hỏi rằng, với một người nông phu, không có kiến thức khoa học, khi thấy trái táo rơi, có thể nghĩ đến sức hút quả đất, định luật về TRỌNG LỰC (gravity) như ông NEWTON hay không? Chắc chắn là không, vì ông nông phu chưa hề có chút “chánh kiến” nào về khoa học để có thể “chánh tư duy” về sức hút quả đất. (Chữ “chánh” ở đây tôi tạm dùng cho khoa học với tinh thần “đúng sự thật”).

Khoa học muốn phát triển, muốn tăng thêm phát minh, muốn tăng thêm khám phá, thì phải dùng đến những "Chánh kiến" (đúng sự thật) đã có từ trước. Những gì đã được xác nhận đúng sự thật, thì không thể bỏ. Trong toán học cũng vậy. Muốn chứng minh một vấn đề gì mới cao hơn, sâu hơn, người ta phải đặt nền tảng của sự chứng minh trên những định đề, định lý, hệ luận, đã được chứng minh rồi. (Dĩ nhiên không thể dựa trên những định lý đã được chứng minh sai, vì những thứ đó đã được coi như TÀ KIẾN, sai với sự thật).

Đạo Phật cũng như vậy, nếu khônggia tài kiến thức về những CHÁNH KIẾN, đúng với sự thật, mà Phật và các đấng giác ngộ đã từ bi trao truyền cho, như LUẬT NHÂN QUẢ, LÝ NHÂN DUYÊNTỨ ĐẾ, BÁT CHÁNH ĐẠO, 12 NHÂN DUYÊN, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, v.v. thì Phật tử không thể tiến xa và tiến nhanh trong đạo giải thoát. Đó là chưa nói rằng khi tu hành có 2 thứ, THAM ÁI và NGÃ CHẤP, rất dễ đưa hành giả đi lạc theo TÀ KIẾN, TÀ ĐẠO. Do đó cần có đủ CHÁNH KIẾN để hộ thân.

Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi. Vô số Phật tử TÀU, VN, vì thiếu BÁT CHÁNH ĐẠO mà bây giờ đã trở thành mê tín dị đoan?


Thêm một ví dụ cụ thể về sự cần có CHÁNH KIẾN trong thực hành Thiền TỨ NIỆM XỨ: Nếu một Phật tử chưa có những CHÁNH KIẾN về LÝ DUYÊN KHỞI để biết "CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH" thì khi "hành thâm Bát Nhã" để chiếu kiến ngŨ uẩn, sẽ không có đủ vốn liếng để CHÁNH TƯ DUY; Do đó sẽ khó giác ngộ được sự thật VÔ NGÃ bằng đường lối Trí Tuệ. Xin xem thêm các bài TỨ NIỆM XỨ: CON ĐƯỜNG THẰNG ĐI ĐẾN BÁT NHÃ và bài THIỀN VÀ CHÁNH NIỆM ở các link sau đây, cùng với những lời góp ý:

http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21508_5-15_6-1_17-683_14-2_15-2/tu-niem-xu-con-duong-thang-den-bat-nha.html

http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21316_5-15_6-1_17-683_14-2_15-2_18-2/#comment_list

Cho nên người Phật tử muốn tiến lên trong sự tu học, bắt buộc phải học đầy đủ BÁT CHÁNH ĐẠO để có đầy đủ GIỚI, ĐỊNH, HUỆ. Trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, trước khi nhập diệt Phật đã khẳng định sự cần thiết BÁT CHÁNH ĐẠO rõ ràng như sau:

Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhứt Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong Pháp và Luật này có Bát Thánh Ðạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán. (Trường Bộ Kinh, Phẩm 16-Kinh Đại Bát Niết Bàn)

 

KẾT LUẬN: Cũng bởi Thiền Tông Trung Hoa tu hành dẹp bỏ các CHÁNH KIẾN của Phật, không theo đầy đủ BÁT CHÁNH ĐẠO của Phật, không thực hành CHÁNH NIỆM của Phật mà lại chỉ muốn tập tành pháp VÔ NIỆM không cần xử dụng đến CHÁNH TƯ DUY, do đó mà Phật giáo Trung Hoa, cũng như Nhật Bản, cũng như Đại Hàn, mới đi đến sự suy tàn như ngày hôm nay.

Nhớ lại xưa kia, đức vua Trần Nhân Tông, Tổ Thiền Tông VN, đã đắp y áo Nguyên Thủy giống như PHẬT mà không theo y áo của các Thiền sư Trung Hoa. Phải chăng hình ảnh đó là một lời nhắn nhủ để lại cho Phật tử VN rằng: Hãy xây đựng Thiền Tông VN đúng với CHÁNH PHÁP của PHẬT. Chấm dứt sự nô lệ tâm linh vào TQ để tránh vết xe đổ của Thiền tông Trung Hoa. 


blank

Nam mô CHÁNH TINH TẤN Bồ tát ma ha tát.

Ý kiến bạn đọc
16 Tháng Mười Hai 201208:00
Khách
dung nen nhin mot khia canh nao do de danh gia mot hien tuong su vat nao. mot ruong lua thi co tot co xau
03 Tháng Mười 201207:00
Khách
Ganh nang cua hoc kinh sach qua nhieu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2866)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4041)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5201)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4186)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3248)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6244)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5223)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4553)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6111)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6000)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3787)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 5919)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4561)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4706)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3316)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6202)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4843)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3481)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3410)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5560)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4148)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5931)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5146)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3602)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3678)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3651)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3474)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5262)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 3891)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4238)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5754)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3082)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3017)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3767)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4778)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3505)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 2983)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4503)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4631)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3382)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3930)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4668)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3477)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3537)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5081)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4047)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3216)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2941)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 2975)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3046)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3042)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3409)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3944)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5041)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2606)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6056)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 2983)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3034)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3224)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3170)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant