Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đôi điều về thực dưỡng Osawa và Phật tử

29 Tháng Hai 201200:00(Xem: 21600)
Đôi điều về thực dưỡng Osawa và Phật tử
ĐÔI ĐIỀU VỀ THỰC DƯỠNG OSAWA VÀ PHẬT TỬ 
Trí Lập

amduong-osawa-contentPhật tử, đương nhiên phải giữ giới, chí ít là năm giới của cư sĩ, dĩ nhiên chay tịnh là điều không cần phải bàn cãi. Thực tế ngày nay, chay tịnh đã vượt ra khỏi ranh giới đạo Phật, khi nhiều tổ chức khoa học uy tín xác nhận ăn chay chẳng những vô hại mà còn có lợi cho sức khoẻ…

Ăn chay ngày nay đã trở thành “mốt”, nó phục vụ đông đảo quần chúng thuộc nhiều đối tượng khác nhau, từ những người mẫu, ca sĩ, thí sinh hoa hậu cần giữ co, giữ eo, đến những người bị chứng béo phì muốn giảm cân. Ngoài ra, còn phải kể đến các Linh mục Công giáo, họ ăn chay theo kiểu Phật giáo một cách rất “hồn nhiên” theo cách nói của các tác giả trên conggiaovietnam.net, với mục đích rõ ràng, thực hiện “hội nhập văn hóa” để “đối thoại liên tôn” theo chủ trương của Vatican. Có người còn tích cực hơn với gạo lức muối mè theo thực đơn số 7 như Linh mục thi sĩ Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh…

Do xã hội thực sự có “cầu”, nên “cung” cũng được đáp ứng nhanh chóng bởi sự bén nhạy của các doanh nghiệp, hàng loạt các công ty cung cấp thực phẩm chay ra đời, nhiều nhà hàng chay được mở ra chào đón khách với những món “chay qúy tộc” mà giá thành có thể mắc gấp đôi so với các món mặn khác…

Đối với Phật tử, thực dưỡng Osawa là một lựa chọn đúng đắn, vừa tiết kiệm ngân quỹ gia đình, vừa phòng chống bệnh tật, giúp cơ thể khoẻ mạnh để có thể thăng tiến tu học.

Phương pháp dưỡng sinh Osawa được biết đến từ thập niên 60 dựa trên căn bản quân bình âm dương của thực phẩm… Bẵng đi một thời gian khá lâu, đến nay phong trào rộ nở mà công đầu thuộc về một nhà sư trẻ, một trong những đệ tử xuất chúng của HT Thích Thanh Từ: Đại đức TTH... Từ đó, tài liệu, băng đĩa được phát hành phục vụ cộng đồng, không chỉ trong nước mà còn được đồng bào người Việt hải ngoại đón chào nồng nhiệt.

Tuy nhiên, do nhận thứctừ lâu người ta chỉ chú trọng đến mặt dưỡng sinh để trị bệnh mà không quan tâm đến khía cạnh tâm linh”, nên thầy TTH đã đặt trọng tâm nghiên cứu thực dưỡng Osawa trên khía cạnh này. Điều đó không có gì sai trái. Rất tiếc, thầy lại quá sa đà vào lý thuyết âm dương, mà quên đi đối tượng chính của mình là các Phật tử, những người tin lời Đức Phật dạy: con người sinh ra trong nhân quả, sống trong nhân quả và chết đi trong nhân quả… Thay vì lấy “nhân quả làm nhân cho phương pháp luận của mình, thầy lại chọn “âm dương”, một học thuyết phi Phật giáo. Dưới đây là vài nhận định.

Nếu nói rằng: Đức Phật hiểu thấu nguyên lý âm dương, bằng chứng khi Ngài dạy nằm thế Kiết Tường, đầu phải quay về hướng bắc, chân xuôi hướng nam, mặt xoay hướng tây lưng dựa hướng đông… Ngài đã nắm vững quy luật âm dương trong thế nằm Kiết Tường, nhưng “Ngài không nói ra”!  Thầy TTH lập luận như thế chẳng khác mấy so với lập luận của Linh mục Cao Phương Kỷ về cái gọi là “tinh thần biện chứng của cây thánh giá”, với trục tung vươn lên tận trời, trục hoành vươn dài về hai phía đến vô tận. Với hàm ý, Giêsu cũng thấu suốt tất cả những vấn đề về triết học và toán học, nhưng Ngài cũng “không nói ra”!?... 

Tôi chợt nhớ lời một vị Tôn túc đáng kính: Người ta đã đặt vào miệng Phật những điều Phật không nói. Quả vậy! những lời Phật chưa hề nói mà dám gán cho “Phật thuyết”, huống hồ là thế giới siêu tưởng, sản phẩm của tưởng tri, tưởng giải, cũng gán cho Phật đã biết, đã chứng. Đây chính là điều Đức Phật đã cảnh báo trong Kinh Tăng Chi I (Anguttara Nikàya). Phẩm Người Ngu: “Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai.”

Đã có quá nhiều thân tầm gửi sống bám trên cơ thể Phật giáo. Mạt pháp chính là chỗ ấy… Ngoại trừ Tuệ Tam Minh, với trí tuệ phàm phu của chúng ta hiện nay, khó có thể kiểm chứng sự lạc dẫn mà người ta cố tình gán cho “Phật thuyết”, nhằm làm chệch hướng lộ trình giải thoát mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã phát hiện sau bốn mưới chín ngày dưới cội bồ đề…

Tôi không biết Chúa Giêsu có hiểu biết về toán học và triết học hay không? Nhưng tôi dám khẳng định Đức Thích Ca Mâu Ni, với trí tuệ Tam Minh, nếu Ngài muốn biết bất kỳ vấn đề gì thì Ngài sẽ biết. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề Ngài không cần biết, vì nó không mang lại lợi ích cho mục tiêu giải thoát của chúng sanh… Chính vì thế Ngài luôn nhắc nhở: những gì cần biết phải biết, những gì cần tu học phải tu học… Điều đó có nghĩa là nếu quy luật âm dương, ngũ hành không phải là pháp môn giải thoát, Ngài sẽ không biết và không cần biết…

Theo quan kiến của cá nhân tôi, lý thuyết âm dương chỉ có giá trị tương đối, không có một tiêu chuẩn nào để thẩm định một vật là âm hay dương… Hiểu biết về âm dương cho đến nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa những nhà Dịch học.

Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”. Nhưng hiện nay, người ta vô tình hay hữu ý tầm thường hóa chân lý ấy. Chữ “khổ” trên cửa miệng của nhiều người đã trở thành câu chuyện nhàm chán: “khổ lắm… biết rồi… nói mãi…”. Người ta đã tầm thường hóa, dung tục hóa, bi hài hóa một chân lý dưới nhiều hình thức như văn chương, thi ca, kịch nghệ kiểu “chuyện tình Lan và Điệp”, nhằm khỏa lấp khoảng trống vô vị của cuộc đời… Thậm chí có vị Thiền sư thời danh đã dạy Phật tử: con người có sẵn sự an lạc mà không chịu hưởng, lại đi nhận nghiệp, nhận khổ. Vị Thiền sư này khẳng định: bên cạnh cái “khổ” của Tứ đế còn có cái “lạc”. Ngài còn dạy cách “chế tác lạc” nhằm đối trị “khổ”!?... Ngài quên rằng Thế Tôn chỉ dạy “Khổ thánh đế”. Thế Tôn không bao giờ chế tác “lạc thánh đế”!... 

Đức Phật dạy: đời là bể khổ, không có khổ chắc chắn không có đạo Phật. Không có khổ chắc chắn Thái tử Tất Đạt Đa đã kế nghiệp vua cha cai trị sơn hà xã tắc của Ngài, chứ không trở thành Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tôn kính của chúng ta ngày nay. Nhưng vì có khổ, khổ là một sự thật hiển nhiên của mỗi con người cụ thể, không mơ hồ, trừu tượng. Nhận thức rõ ràng điều đó nên Ngài đã bỏ cung vàng điện ngọc ra đi với mục đích duy nhất, giải quyết rốt ráo vấn nạn này và Ngài đã thành công. Vì thế, bài pháp đầu tiên Ngài giảng cho năm anh em ông Kiều Trần NhưTứ Thánh Đế, đế đầu tiên Ngài dạy là KHỔ THÁNH ĐẾ. Sao “Khổ” mà gọi là “Thánh”? Chính nhờ trí tuệ siêu việt Ngài đã liễu tri như thực khổ, xác chứng chân lý đầu tiên của đạo Phật.

Nhưng khổ từ đâu sanh? Câu trả lời vắn gọn chính là từ tham dục… Vì tham dụccon người phải trôi lăn, hết tham dục thì hết trôi lăn, hết trôi lăn đương nhiên phải hết khổ. Đơn giản chỉ có thế! Điều này được xác tín qua lời dạy của Đức Phật: “Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các Tỷ-kheo, là một pháp, các Thầy hãy từ bỏ! Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.” (Tiểu bộ kinh. Bài kinh Một Pháp). Đối với sân và si, Ngài cũng dạy y như thế…

Kính thưa thầy T.T.H. Thầy có tin không? Tin rằng, nếu từ bỏ được tham sân si, Đức Phật bảo đảm không còn tái sanh! Tin không? Nếu tin sao thầy dạy Phật tử những điều ngược lại? Rằng: "Nếu một người tu theo đạo Phật mà không thấu triệt âm dương thì không thể đạt đến đỉnh cao của tâm linh…" Rằng: "Thực dưỡng Osawa không chỉ dừng ở chỗ dưỡng sinh mà còn nhìn sâu hơn đến Giác Ngộ Giải Thoát." Và khẳng định: "đó là mục đích cuối cùng của phương pháp dưỡng sinh Osawa…"

Tôi không tin tất cả các bậc Tôn túc hiện nay đều “thấu triệt lý thuyết âm dương”, nếu thế các vị sẽ “không thể đạt đến đỉnh cao tâm linh”?, không thể “nhìn sâu hơn đến giác ngộ giải thoát”?, các vị không thể đạt đến “mục đích cuối cùng” của đạo Phật!…

Lại nữa, nhiều Linh mục Công giáo như Lương Kim Định, Trần Văn Đoàn… là nhưng người rất am tường học thuyết âm dương, ngũ hành, họ cũng đã từng chia sẻ những trải nghiệm tâm linh giải thoát, nhưng là giải thoát trong “Chúa quan phòng” của họ!…

Có thể tạm kết luận, thực dưỡng Osawa và triết lý âm dương có thể dẫn đến “giác ngộ giải thoát”, nhưng giải thoát theo kiểu gì thì còn tùy, kiểu của các Đạo sĩ hoặc Nho sĩ? kiểu của Tiên sinh Osawa hay kiểu của các Linh mục Công giáo?… Riêng đối với đạo Phật, câu trả lời dứt khoát là “Không thể”. Giải thoát của đạo Phậtly dục, ly ác pháp, ly tham sân si, như đã được khẳng định trong bài kinh “Một pháp” thuộc kinh Tiểu Bộ, với sự bảo đảm chắc chắn của chính Đức Phật: Hãy từ bỏ tham, ta bảo đảm với các thầy sẽ không còn tái sanh…” 

Thật ngạc nhiên trước lời dạy: "Khi tọa thiền, vận dụng hơi thở để tại đan điền ở mạch nhâm, mà quên mạch đốc ở phía sau sẽ bị mất quân bình âm dương... người ngộ tánh là người phải hiểu được nguyên lý âm dương…" Có thể thầy T.T.H. đã dạy đúng, nhưng là đúng pháp của một vị Tổ sư nào đó, chứ không thể đúng pháp mà Đức Phật đã dạy trong Nikaya. Trong kinh Niệm xứ (Satipatthàna sutta) Đức Phật dạy rất rõ: "tuệ tri hơi thở vô, hơi thở ra với mục đích thấy như thật tánh sanh khởi, tánh sanh diệt, tánh diệt tận trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp," chứ Ngài không hề dạy vận dụng hơi thở tại đan điền, mạch nhâm, mạch đốc để quân bình âm dương… Đặc biệt đối với thân, vì trên thân có đầy đủ cả thọ, tâmpháp. Vì thế Đức Phật dạy: “"Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời…” Đã không nương tựa bất cứ việc gì trên đời, có lý nào lại nương tựa vào âm dương, mạch nhâm, mạch đốc?...

Luận thiền, luận đạo của các vị Tổ sư, của các tông phái không phải là mục đích của bài viết này. Người viết chỉ đưa ra những nhận định dựa trên lời dạy của chính Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni trong Nikaya với một tín lực đã được khẳng định: “Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn…” Chính vì thế, những lời dạy kiểu: "một người ngồi thiền không thể vào định được nếu không ngộ được nguyên lý âm dương…" chỉ có thể là thiền tưởng, định tưởng của một tôn giáo nào đó, chứ không thể là thiền định do chính Đức Phật dạy… Cái gọi là: không thể vào định! Định gì mà vào? Trong 37 phẩm trợ đạo Định Giác Chi và Định Như Ý Túcpháp thành tựu chứ không phải pháp hành. Pháp hành chính là: ngăn ác, diệt ác pháp. Sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp (Tứ chánh cần) và ly xả ngũ triền cái, thất kiết sử trên thân, thọ, tâm, pháp (Tứ niệm xứ). Do công năng ly và xả thật sạch mà Định Giác Chi và Định Như Ý Túc tự thành tựu. Nếu ngộ được nguyên lý âm dương mà vào được định, thì đây chỉ có thể là định tưởng. Về Thiền cũng thế, bằng chánh niệm tỉnh giác, ly tham dục, ly bất thiện pháp một cách triệt để, với tầm và tứ, cánh cửa Thiền thứ nhất sẽ được mở ra, chứ không thể ngồi quay mặt về hướng bắc cho đúng với từ trường âm dương mà có thể mở được cánh cửa Thiền này.

Từ bỏ tham như thế nào? Đạo Phật rất thực tế, rõ ràng cụ thể, không phải mớ lý luận siêu hình. Bài kinh 62. Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la (Mahà Ràhulovàda sutta) Đức Phật dạy: "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập…” Dĩ nhiên không phải “quán”“ly” được ngay, mà từng giờ, từng phút, từng giây, chánh niệm tỉnh giác trên mỗi hơi thở ra, thở vô mới có cơ may quét sạch tham dục.

Cũng cần nói thêm để tránh ngộ nhận. Từ “quán” trong câu “quán ly tham” không phải pháp quán thông thường như mọi người thường hiểu, mà là pháp môn tạo ý thức lực mạnh mẽ gọi là “Như lý tác ý đệ nhất pháp” như chính Đức Phật đã dạy pháp môn này rất nhiều trong suốt bộ kinh Tăng Chi: “Này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận…” Đây chính là pháp môn “Đoạn Triền Cái”… 

Nếu chúng ta “tu cầm chừng”, chỉ với mục đích gieo duyên với chính pháp, có thể thủng thỉnh, tà tà, vừa “tu" vừa nghiên cứu âm dương ngũ hành, áp dụng vào thực dưỡng đúng cách để có một cuộc sống tốt đẹp với một cơ thể khỏe mạnh. Điều này không có gì sai trái… Nhưng nếu chúng ta ý thức Sanh Tử Là Việc Lớn, thôi thúc bức bách sau lưng ta, buộc ta phải quyết định lựa chọn, đấu tranh một mất một còn với giặc sanh tử, liệu có thời gian chăng để nghiên cứu âm dương áp dụng cho đúng phép thực dưỡng?

Nếu quyết định chọn con đường giải thoátĐức Phật đã khẳng định “duy nhất, không có con đường thứ hai” như đã được biết trong kinh Niệm xứ Satipatthàna sutta thì hãy buông xả tất cả, hãy trả âm dương về cho thái cực, tứ tượng, bát quái, để nó vận hành, điều hòa vũ trụ theo cách của nó mà chúng ta không cần quan tâm… Vả lại, Đức Phật cũng đã từng dạy: “thừa tự Pháp không thừa tự thực phẩm…” (Kinh Thừa tự Pháp. Dhammadàyàda sutta. Trung bộ kinh).

Bệnh tật là một chướng ngại pháp tồn tại trên thân, nó sinh ra từ tham dục. Nếu tham ăn, tham uống, tham hút, chắc khó tránh các bệnh thuộc hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa… Nhờ có chánh kiến, chánh tư duy, người Phật tử biết do nhân tham mà có quả bệnh, nhân quả rất rõ ràng, giả sửliên quan đến âm dương ngũ hành, cũng không phải là nguyên nhân chính.

“Có bệnh thì vái tứ phương, có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Kinh nghiệm dân gian được đúc kết nhiều đời đã khẳng định một giá trị thực tiễn: “có kiêng có lành”. Nếu thân bệnh mà biết kiêng cữ đúng cách cũng có thể ngăn chặn các biến chứng một cách đáng kể. Về mặt này, lý thuyết âm dương quân bình thực phẩm trong phương pháp dưỡng sinh Osawa cũng có mặt tích cực của nó. Người Phật tử đang áp dụng phép thực dưỡng này, có thể nghiên cứu nếu có điều kiệnthời gian. Nhưng không được phép nhầm lẫn bởi sự lạc dẫn do vô tình hay cố ý của ai đó đã cho rằng đây cũng là pháp môn “giác ngộ giải thoát” của đạo Phật.

Đối với thân bệnh, đạo Phật cũng có cách ngăn ngừa, hạn chế bệnh tật đơn giảnhiệu quả, đó là: thiểu dục tri túc. Từ đó hướng tới một giải pháp tích cực hơn, quét sạch tất cả mọi chướng ngại pháp trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp. Tất nhiên không dễ dàng gì vì tham dụcbất thiện pháp đã đổ bê tông cốt thép dày đặc trên đó, chúng đã khằn cứng từ nhiều đời kiếp, chỉ còn cách nhiệt tâm học làm nghề “khoan cắt bê tông”, tích cực khoan, đục, chặt các kiết sử, mài mòn dần các triền cái trên cả bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Nếu quét sạch được, lúc đó hành giả có thể ca khúc khải hoàn: “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong…”

Điều sau cùng muốn chia sẻ là: tu giới và giữ giới là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Giới là pháp môn tu học chứ không phải là tín điều buộc phải giữ. Một người giữ giới, trường chay ba mươi năm, người này chưa chắc đã tu giới. Ngược lại, một người tu giới, người đó chắc chắn đã giữ giới. Điều này dễ hiểu vì dù trường chay nhiều năm, nhưng dục ăn vẫn còn, nghiệp đói của thân chưa xả bỏ. Ngoài dục ăn, còn nhiều thứ dục vi tế khác khó nhận biết, ví như thực phẩm phải vừa tương phản, vừa hài hòa về màu sắc, vừa kết hợp quân bình âm dương, tạo nên một món ăn đạt chuẩn thẩm mỹ mà người ta vẫn gọi là “nghệ thuật ẩm thực” với triết lý: ăn không chỉ bằng miệng mà còn bằng mắt… Đối với đạo Phật, chính tại chỗ này, dục của mắt, của mũi, của lưỡi phát sinh… Tu giới không chỉ là giữ giới mà chính là ly dục. Đây chính là chỗ khác biệt giữa người tu giới và người giữ giới.

Trí Lập

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13171)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19330)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24573)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15714)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37795)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13455)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13061)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17147)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13174)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17359)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 13192)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14361)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12776)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13629)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28551)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23355)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34335)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28844)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32150)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11298)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11988)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26251)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17347)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14506)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34435)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13099)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12263)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13386)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40486)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26893)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14442)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13217)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13439)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12506)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13112)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12287)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11759)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12548)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17646)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12181)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12724)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18422)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14276)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12975)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11306)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12124)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13443)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10818)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11052)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10263)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28840)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25228)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26828)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25713)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18632)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22971)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34493)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32112)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 30356)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30620)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant