Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đôi điều về thực dưỡng Osawa và Phật tử

29 Tháng Hai 201200:00(Xem: 21609)
Đôi điều về thực dưỡng Osawa và Phật tử
ĐÔI ĐIỀU VỀ THỰC DƯỠNG OSAWA VÀ PHẬT TỬ 
Trí Lập

amduong-osawa-contentPhật tử, đương nhiên phải giữ giới, chí ít là năm giới của cư sĩ, dĩ nhiên chay tịnh là điều không cần phải bàn cãi. Thực tế ngày nay, chay tịnh đã vượt ra khỏi ranh giới đạo Phật, khi nhiều tổ chức khoa học uy tín xác nhận ăn chay chẳng những vô hại mà còn có lợi cho sức khoẻ…

Ăn chay ngày nay đã trở thành “mốt”, nó phục vụ đông đảo quần chúng thuộc nhiều đối tượng khác nhau, từ những người mẫu, ca sĩ, thí sinh hoa hậu cần giữ co, giữ eo, đến những người bị chứng béo phì muốn giảm cân. Ngoài ra, còn phải kể đến các Linh mục Công giáo, họ ăn chay theo kiểu Phật giáo một cách rất “hồn nhiên” theo cách nói của các tác giả trên conggiaovietnam.net, với mục đích rõ ràng, thực hiện “hội nhập văn hóa” để “đối thoại liên tôn” theo chủ trương của Vatican. Có người còn tích cực hơn với gạo lức muối mè theo thực đơn số 7 như Linh mục thi sĩ Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh…

Do xã hội thực sự có “cầu”, nên “cung” cũng được đáp ứng nhanh chóng bởi sự bén nhạy của các doanh nghiệp, hàng loạt các công ty cung cấp thực phẩm chay ra đời, nhiều nhà hàng chay được mở ra chào đón khách với những món “chay qúy tộc” mà giá thành có thể mắc gấp đôi so với các món mặn khác…

Đối với Phật tử, thực dưỡng Osawa là một lựa chọn đúng đắn, vừa tiết kiệm ngân quỹ gia đình, vừa phòng chống bệnh tật, giúp cơ thể khoẻ mạnh để có thể thăng tiến tu học.

Phương pháp dưỡng sinh Osawa được biết đến từ thập niên 60 dựa trên căn bản quân bình âm dương của thực phẩm… Bẵng đi một thời gian khá lâu, đến nay phong trào rộ nở mà công đầu thuộc về một nhà sư trẻ, một trong những đệ tử xuất chúng của HT Thích Thanh Từ: Đại đức TTH... Từ đó, tài liệu, băng đĩa được phát hành phục vụ cộng đồng, không chỉ trong nước mà còn được đồng bào người Việt hải ngoại đón chào nồng nhiệt.

Tuy nhiên, do nhận thứctừ lâu người ta chỉ chú trọng đến mặt dưỡng sinh để trị bệnh mà không quan tâm đến khía cạnh tâm linh”, nên thầy TTH đã đặt trọng tâm nghiên cứu thực dưỡng Osawa trên khía cạnh này. Điều đó không có gì sai trái. Rất tiếc, thầy lại quá sa đà vào lý thuyết âm dương, mà quên đi đối tượng chính của mình là các Phật tử, những người tin lời Đức Phật dạy: con người sinh ra trong nhân quả, sống trong nhân quả và chết đi trong nhân quả… Thay vì lấy “nhân quả làm nhân cho phương pháp luận của mình, thầy lại chọn “âm dương”, một học thuyết phi Phật giáo. Dưới đây là vài nhận định.

Nếu nói rằng: Đức Phật hiểu thấu nguyên lý âm dương, bằng chứng khi Ngài dạy nằm thế Kiết Tường, đầu phải quay về hướng bắc, chân xuôi hướng nam, mặt xoay hướng tây lưng dựa hướng đông… Ngài đã nắm vững quy luật âm dương trong thế nằm Kiết Tường, nhưng “Ngài không nói ra”!  Thầy TTH lập luận như thế chẳng khác mấy so với lập luận của Linh mục Cao Phương Kỷ về cái gọi là “tinh thần biện chứng của cây thánh giá”, với trục tung vươn lên tận trời, trục hoành vươn dài về hai phía đến vô tận. Với hàm ý, Giêsu cũng thấu suốt tất cả những vấn đề về triết học và toán học, nhưng Ngài cũng “không nói ra”!?... 

Tôi chợt nhớ lời một vị Tôn túc đáng kính: Người ta đã đặt vào miệng Phật những điều Phật không nói. Quả vậy! những lời Phật chưa hề nói mà dám gán cho “Phật thuyết”, huống hồ là thế giới siêu tưởng, sản phẩm của tưởng tri, tưởng giải, cũng gán cho Phật đã biết, đã chứng. Đây chính là điều Đức Phật đã cảnh báo trong Kinh Tăng Chi I (Anguttara Nikàya). Phẩm Người Ngu: “Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai.”

Đã có quá nhiều thân tầm gửi sống bám trên cơ thể Phật giáo. Mạt pháp chính là chỗ ấy… Ngoại trừ Tuệ Tam Minh, với trí tuệ phàm phu của chúng ta hiện nay, khó có thể kiểm chứng sự lạc dẫn mà người ta cố tình gán cho “Phật thuyết”, nhằm làm chệch hướng lộ trình giải thoát mà Đức Thích Ca Mâu Ni đã phát hiện sau bốn mưới chín ngày dưới cội bồ đề…

Tôi không biết Chúa Giêsu có hiểu biết về toán học và triết học hay không? Nhưng tôi dám khẳng định Đức Thích Ca Mâu Ni, với trí tuệ Tam Minh, nếu Ngài muốn biết bất kỳ vấn đề gì thì Ngài sẽ biết. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề Ngài không cần biết, vì nó không mang lại lợi ích cho mục tiêu giải thoát của chúng sanh… Chính vì thế Ngài luôn nhắc nhở: những gì cần biết phải biết, những gì cần tu học phải tu học… Điều đó có nghĩa là nếu quy luật âm dương, ngũ hành không phải là pháp môn giải thoát, Ngài sẽ không biết và không cần biết…

Theo quan kiến của cá nhân tôi, lý thuyết âm dương chỉ có giá trị tương đối, không có một tiêu chuẩn nào để thẩm định một vật là âm hay dương… Hiểu biết về âm dương cho đến nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa những nhà Dịch học.

Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”. Nhưng hiện nay, người ta vô tình hay hữu ý tầm thường hóa chân lý ấy. Chữ “khổ” trên cửa miệng của nhiều người đã trở thành câu chuyện nhàm chán: “khổ lắm… biết rồi… nói mãi…”. Người ta đã tầm thường hóa, dung tục hóa, bi hài hóa một chân lý dưới nhiều hình thức như văn chương, thi ca, kịch nghệ kiểu “chuyện tình Lan và Điệp”, nhằm khỏa lấp khoảng trống vô vị của cuộc đời… Thậm chí có vị Thiền sư thời danh đã dạy Phật tử: con người có sẵn sự an lạc mà không chịu hưởng, lại đi nhận nghiệp, nhận khổ. Vị Thiền sư này khẳng định: bên cạnh cái “khổ” của Tứ đế còn có cái “lạc”. Ngài còn dạy cách “chế tác lạc” nhằm đối trị “khổ”!?... Ngài quên rằng Thế Tôn chỉ dạy “Khổ thánh đế”. Thế Tôn không bao giờ chế tác “lạc thánh đế”!... 

Đức Phật dạy: đời là bể khổ, không có khổ chắc chắn không có đạo Phật. Không có khổ chắc chắn Thái tử Tất Đạt Đa đã kế nghiệp vua cha cai trị sơn hà xã tắc của Ngài, chứ không trở thành Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tôn kính của chúng ta ngày nay. Nhưng vì có khổ, khổ là một sự thật hiển nhiên của mỗi con người cụ thể, không mơ hồ, trừu tượng. Nhận thức rõ ràng điều đó nên Ngài đã bỏ cung vàng điện ngọc ra đi với mục đích duy nhất, giải quyết rốt ráo vấn nạn này và Ngài đã thành công. Vì thế, bài pháp đầu tiên Ngài giảng cho năm anh em ông Kiều Trần NhưTứ Thánh Đế, đế đầu tiên Ngài dạy là KHỔ THÁNH ĐẾ. Sao “Khổ” mà gọi là “Thánh”? Chính nhờ trí tuệ siêu việt Ngài đã liễu tri như thực khổ, xác chứng chân lý đầu tiên của đạo Phật.

Nhưng khổ từ đâu sanh? Câu trả lời vắn gọn chính là từ tham dục… Vì tham dụccon người phải trôi lăn, hết tham dục thì hết trôi lăn, hết trôi lăn đương nhiên phải hết khổ. Đơn giản chỉ có thế! Điều này được xác tín qua lời dạy của Đức Phật: “Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các Tỷ-kheo, là một pháp, các Thầy hãy từ bỏ! Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.” (Tiểu bộ kinh. Bài kinh Một Pháp). Đối với sân và si, Ngài cũng dạy y như thế…

Kính thưa thầy T.T.H. Thầy có tin không? Tin rằng, nếu từ bỏ được tham sân si, Đức Phật bảo đảm không còn tái sanh! Tin không? Nếu tin sao thầy dạy Phật tử những điều ngược lại? Rằng: "Nếu một người tu theo đạo Phật mà không thấu triệt âm dương thì không thể đạt đến đỉnh cao của tâm linh…" Rằng: "Thực dưỡng Osawa không chỉ dừng ở chỗ dưỡng sinh mà còn nhìn sâu hơn đến Giác Ngộ Giải Thoát." Và khẳng định: "đó là mục đích cuối cùng của phương pháp dưỡng sinh Osawa…"

Tôi không tin tất cả các bậc Tôn túc hiện nay đều “thấu triệt lý thuyết âm dương”, nếu thế các vị sẽ “không thể đạt đến đỉnh cao tâm linh”?, không thể “nhìn sâu hơn đến giác ngộ giải thoát”?, các vị không thể đạt đến “mục đích cuối cùng” của đạo Phật!…

Lại nữa, nhiều Linh mục Công giáo như Lương Kim Định, Trần Văn Đoàn… là nhưng người rất am tường học thuyết âm dương, ngũ hành, họ cũng đã từng chia sẻ những trải nghiệm tâm linh giải thoát, nhưng là giải thoát trong “Chúa quan phòng” của họ!…

Có thể tạm kết luận, thực dưỡng Osawa và triết lý âm dương có thể dẫn đến “giác ngộ giải thoát”, nhưng giải thoát theo kiểu gì thì còn tùy, kiểu của các Đạo sĩ hoặc Nho sĩ? kiểu của Tiên sinh Osawa hay kiểu của các Linh mục Công giáo?… Riêng đối với đạo Phật, câu trả lời dứt khoát là “Không thể”. Giải thoát của đạo Phậtly dục, ly ác pháp, ly tham sân si, như đã được khẳng định trong bài kinh “Một pháp” thuộc kinh Tiểu Bộ, với sự bảo đảm chắc chắn của chính Đức Phật: Hãy từ bỏ tham, ta bảo đảm với các thầy sẽ không còn tái sanh…” 

Thật ngạc nhiên trước lời dạy: "Khi tọa thiền, vận dụng hơi thở để tại đan điền ở mạch nhâm, mà quên mạch đốc ở phía sau sẽ bị mất quân bình âm dương... người ngộ tánh là người phải hiểu được nguyên lý âm dương…" Có thể thầy T.T.H. đã dạy đúng, nhưng là đúng pháp của một vị Tổ sư nào đó, chứ không thể đúng pháp mà Đức Phật đã dạy trong Nikaya. Trong kinh Niệm xứ (Satipatthàna sutta) Đức Phật dạy rất rõ: "tuệ tri hơi thở vô, hơi thở ra với mục đích thấy như thật tánh sanh khởi, tánh sanh diệt, tánh diệt tận trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp," chứ Ngài không hề dạy vận dụng hơi thở tại đan điền, mạch nhâm, mạch đốc để quân bình âm dương… Đặc biệt đối với thân, vì trên thân có đầy đủ cả thọ, tâmpháp. Vì thế Đức Phật dạy: “"Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời…” Đã không nương tựa bất cứ việc gì trên đời, có lý nào lại nương tựa vào âm dương, mạch nhâm, mạch đốc?...

Luận thiền, luận đạo của các vị Tổ sư, của các tông phái không phải là mục đích của bài viết này. Người viết chỉ đưa ra những nhận định dựa trên lời dạy của chính Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni trong Nikaya với một tín lực đã được khẳng định: “Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn…” Chính vì thế, những lời dạy kiểu: "một người ngồi thiền không thể vào định được nếu không ngộ được nguyên lý âm dương…" chỉ có thể là thiền tưởng, định tưởng của một tôn giáo nào đó, chứ không thể là thiền định do chính Đức Phật dạy… Cái gọi là: không thể vào định! Định gì mà vào? Trong 37 phẩm trợ đạo Định Giác Chi và Định Như Ý Túcpháp thành tựu chứ không phải pháp hành. Pháp hành chính là: ngăn ác, diệt ác pháp. Sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp (Tứ chánh cần) và ly xả ngũ triền cái, thất kiết sử trên thân, thọ, tâm, pháp (Tứ niệm xứ). Do công năng ly và xả thật sạch mà Định Giác Chi và Định Như Ý Túc tự thành tựu. Nếu ngộ được nguyên lý âm dương mà vào được định, thì đây chỉ có thể là định tưởng. Về Thiền cũng thế, bằng chánh niệm tỉnh giác, ly tham dục, ly bất thiện pháp một cách triệt để, với tầm và tứ, cánh cửa Thiền thứ nhất sẽ được mở ra, chứ không thể ngồi quay mặt về hướng bắc cho đúng với từ trường âm dương mà có thể mở được cánh cửa Thiền này.

Từ bỏ tham như thế nào? Đạo Phật rất thực tế, rõ ràng cụ thể, không phải mớ lý luận siêu hình. Bài kinh 62. Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la (Mahà Ràhulovàda sutta) Đức Phật dạy: "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập…” Dĩ nhiên không phải “quán”“ly” được ngay, mà từng giờ, từng phút, từng giây, chánh niệm tỉnh giác trên mỗi hơi thở ra, thở vô mới có cơ may quét sạch tham dục.

Cũng cần nói thêm để tránh ngộ nhận. Từ “quán” trong câu “quán ly tham” không phải pháp quán thông thường như mọi người thường hiểu, mà là pháp môn tạo ý thức lực mạnh mẽ gọi là “Như lý tác ý đệ nhất pháp” như chính Đức Phật đã dạy pháp môn này rất nhiều trong suốt bộ kinh Tăng Chi: “Này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục tham chưa sanh không sanh khởi, và dục tham đã sanh được đoạn tận…” Đây chính là pháp môn “Đoạn Triền Cái”… 

Nếu chúng ta “tu cầm chừng”, chỉ với mục đích gieo duyên với chính pháp, có thể thủng thỉnh, tà tà, vừa “tu" vừa nghiên cứu âm dương ngũ hành, áp dụng vào thực dưỡng đúng cách để có một cuộc sống tốt đẹp với một cơ thể khỏe mạnh. Điều này không có gì sai trái… Nhưng nếu chúng ta ý thức Sanh Tử Là Việc Lớn, thôi thúc bức bách sau lưng ta, buộc ta phải quyết định lựa chọn, đấu tranh một mất một còn với giặc sanh tử, liệu có thời gian chăng để nghiên cứu âm dương áp dụng cho đúng phép thực dưỡng?

Nếu quyết định chọn con đường giải thoátĐức Phật đã khẳng định “duy nhất, không có con đường thứ hai” như đã được biết trong kinh Niệm xứ Satipatthàna sutta thì hãy buông xả tất cả, hãy trả âm dương về cho thái cực, tứ tượng, bát quái, để nó vận hành, điều hòa vũ trụ theo cách của nó mà chúng ta không cần quan tâm… Vả lại, Đức Phật cũng đã từng dạy: “thừa tự Pháp không thừa tự thực phẩm…” (Kinh Thừa tự Pháp. Dhammadàyàda sutta. Trung bộ kinh).

Bệnh tật là một chướng ngại pháp tồn tại trên thân, nó sinh ra từ tham dục. Nếu tham ăn, tham uống, tham hút, chắc khó tránh các bệnh thuộc hệ hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa… Nhờ có chánh kiến, chánh tư duy, người Phật tử biết do nhân tham mà có quả bệnh, nhân quả rất rõ ràng, giả sửliên quan đến âm dương ngũ hành, cũng không phải là nguyên nhân chính.

“Có bệnh thì vái tứ phương, có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Kinh nghiệm dân gian được đúc kết nhiều đời đã khẳng định một giá trị thực tiễn: “có kiêng có lành”. Nếu thân bệnh mà biết kiêng cữ đúng cách cũng có thể ngăn chặn các biến chứng một cách đáng kể. Về mặt này, lý thuyết âm dương quân bình thực phẩm trong phương pháp dưỡng sinh Osawa cũng có mặt tích cực của nó. Người Phật tử đang áp dụng phép thực dưỡng này, có thể nghiên cứu nếu có điều kiệnthời gian. Nhưng không được phép nhầm lẫn bởi sự lạc dẫn do vô tình hay cố ý của ai đó đã cho rằng đây cũng là pháp môn “giác ngộ giải thoát” của đạo Phật.

Đối với thân bệnh, đạo Phật cũng có cách ngăn ngừa, hạn chế bệnh tật đơn giảnhiệu quả, đó là: thiểu dục tri túc. Từ đó hướng tới một giải pháp tích cực hơn, quét sạch tất cả mọi chướng ngại pháp trên cả bốn trụ xứ thân, thọ, tâm, pháp. Tất nhiên không dễ dàng gì vì tham dụcbất thiện pháp đã đổ bê tông cốt thép dày đặc trên đó, chúng đã khằn cứng từ nhiều đời kiếp, chỉ còn cách nhiệt tâm học làm nghề “khoan cắt bê tông”, tích cực khoan, đục, chặt các kiết sử, mài mòn dần các triền cái trên cả bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Nếu quét sạch được, lúc đó hành giả có thể ca khúc khải hoàn: “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong…”

Điều sau cùng muốn chia sẻ là: tu giới và giữ giới là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Giới là pháp môn tu học chứ không phải là tín điều buộc phải giữ. Một người giữ giới, trường chay ba mươi năm, người này chưa chắc đã tu giới. Ngược lại, một người tu giới, người đó chắc chắn đã giữ giới. Điều này dễ hiểu vì dù trường chay nhiều năm, nhưng dục ăn vẫn còn, nghiệp đói của thân chưa xả bỏ. Ngoài dục ăn, còn nhiều thứ dục vi tế khác khó nhận biết, ví như thực phẩm phải vừa tương phản, vừa hài hòa về màu sắc, vừa kết hợp quân bình âm dương, tạo nên một món ăn đạt chuẩn thẩm mỹ mà người ta vẫn gọi là “nghệ thuật ẩm thực” với triết lý: ăn không chỉ bằng miệng mà còn bằng mắt… Đối với đạo Phật, chính tại chỗ này, dục của mắt, của mũi, của lưỡi phát sinh… Tu giới không chỉ là giữ giới mà chính là ly dục. Đây chính là chỗ khác biệt giữa người tu giới và người giữ giới.

Trí Lập

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1628)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1619)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1019)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1492)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1473)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1656)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1916)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1502)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1338)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1362)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1532)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1124)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1244)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1248)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1682)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1630)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2926)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1806)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1358)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1217)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1269)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1392)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1312)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1911)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1664)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1877)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1808)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2381)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1776)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2105)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2175)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2287)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1843)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1967)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2017)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1927)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2571)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1936)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1868)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1934)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1880)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2144)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2289)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1957)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2065)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1843)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1888)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2394)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2312)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3942)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2460)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3164)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2459)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2037)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1792)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3292)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2333)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3010)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2688)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant