Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thức biếnchuyển thức

12 Tháng Ba 201200:00(Xem: 17062)
Thức biến và chuyển thức
THỨC BIẾNCHUYỂN THỨC
Nguyễn Thế Đăng

1. Thức biến

Duy Thức tông, y cứ vào kinh, nói: Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức.

Chúng ta hãy lấy một ví dụ cụ thểđơn giản. Tôi đang thấy một cây dừa. Tại sao nói cây dừa này là do thức biến?

Trước hết là năm thức của giác quan (tiền ngũ thức). Nhãn thức do sự tiếp xúc, tương tác của căn (giác quan mắt) và trần (đối tượng hiện diện của con mắt) mà sanh khởi. Đây là một liên hệ duyên sanh. Căn trần thức là một bộ ba duyên sanh, nương dựa vào nhau mà có. Thiếu một cái thì chẳng thành cái gì, một cái biến đổi thì hai cái kia biến đổi theo. Nhãn thức như thế này của tôi là do nhãn căn (con mắt) được cấu tạo theo kiểu người mà có, và trần (đối tượng để thấy và được thấy) cũng tùy thuộc vào nhãn căn của tôi. Trần là trần của một loại nhãn căn nào đó, không có một cái trần khách quan tuyệt đối. Như cây dừa, con chó chỉ thấy có hai màu đen trắng, con rắn thì thấy bằng hơi nóng (như chúng ta nhìn qua ống dòm hồng ngoại tuyến, con dơi thì thấy bằng sóng điện như ra đa…­). Giác quan mắt của mỗi loài khác nhau nên đối tượng được thấy cũng khác nhau.

Trần là trần đối với một loại giác quan nào đó, không có trần khách quan tuyệt đối. Và thức cũng là thức của một loại giác quan và một loại trần nào đó do hệ thống cấu tạo của giác quan quy định.

Như vậy cấp độ thức biến thứ nhất là sự khác biệt của các nhãn căn của các loài khác nhau, đưa đến nhãn thức khác nhau. Nhưng năm thức giác quan chỉ là những dữ liệu nguyên sơ, phái có ý thức để đối tượng được định hình rõ hơn. Ý thứcnhận thức bằng phân biệt, so sánh, dựa vào trí nhớ và cả trí tưởng tượng. ý thức này cũng phân biệt chủ thể và đối tượng, ngã và pháp.

Bắt đầu ở ý thức này mà có thương ghét, có thiện ác, xấu tốt, có phiền não, có ý thức, có hôn trầm, có niệm, có định… Chức năng của ý thứcsuy nghĩ, tập trung và tưởng tượng. Ý thứcchức năng chính yếu của con người. Thế giới ngày nay có một góc nào mà không có sự sắp đặt, sáng tạo của ý thức con người?

Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi nhiều hơn gây ra nhiều méo mó khác biệt hơn, nhiều “ô nhiễm” cho tâm thức hơn. Chẳng hạn, cũng lấy ví dụ cây dừa, nếu hồi nhỏ tôi trèo lên và gặp rắn rồi té. Lớn lên uống nước dừa thường đau bụng. Thế nên, hình ảnh cây dừa, với tôi, đi liền với sự nguy hiểm bất ngờ, với một thức uống đáng ngại. Cho nên hình ảnh cây dừa gây cho tôi một ngại ngùng so với các cây khác. Sự bất bình đẳng, sự méo mó, đậm nhạt trong ý thức của tôi đã có từ những kinh nghiệm rất riêng tư của tôi đối với đời sống. Cây dừa không còn là cây dừa khách quan nữa. Nó đã bị biến đổi theo kinh nghiệm chủ quan của tôi. Và cứ thế, tất cả mọi sự vật của cuộc đời này đều bị biến đổi theo kinh nghiệm chủ quan của tôi.

Thế giới trở thành “toàn là gò đống, hầm hố, chông gai, sỏi đá, núi non, dơ bẩn đầy dẫy”, như ngài Xá-lợi-phất đã nói trong phẩm Phật quốc, mở đầu cho kinh Duy-Ma-Cật. Cách giải quyết vấn đề này là: “Đấy là do tâm ý của ngài có cao có thấp, không nương theo trí huệ Phật để thấy cõi này vốn là thanh tịnh. Thưa ngài, Bồ tát đối với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh y theo trí huệ Phật nên thấy cõi Phật này là thanh tịnh”. Đức Phật kết luận: “Bồ tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, phải làm cho tâm thanh tịnh, tùy theo tâm thanh tịnh đến đâu thì cõi Phật thanh tịnh hiện ra đến đó”.

Như vậy, năm thức giác quan và ý thức-sáu thức này luận Thành Duy Thức gọi là liễu biệt cảnh-đã biến đổi thực tại thành không gianthời gian riêng của chúng, thành một cái tôi chủ quanmột thế giới chủ quan mà chúng lầm tưởng là ở bên ngoài chúng.

Cũng chính ý thứctác nhân chủ yếu biến đổi trở lại thế giới méo mó của nó thành thế giới như thực. Đó là con đường phản bổn hoàn nguyên, con đường của đạo Phật, con đường giải thoát khỏi ngã và pháp vọng tưởng để thấy ra thực tại không có ngã và pháp. Nói theo Duy thức học, đó là con đường xa lìa Biến kế sở chấp tánh để trở lại Viên thành thật tánh.

Thức thứ bảy là Mạt-na-thức, còn gọi là Ý. Thức này là sự phân biệt vi tế- mà luận Thành Duy Thức gọi là tư lương- phân biệt không cần có ý thức, phân biệt một cách vô thức, nằm trong vô thức. Mạt-na là sự chấp ngã vi tế, theo luận Thành Duy Thức thì thức này, “Tương ưng bốn phiền não, là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái”.

Sinh ra đời đã cảm nhận có tôi (mạt-na-thức). Rồi với thời gian, với sự hỗ trợ của ý thức và năm thức giác quan, cái tôi càng ngày càng rõ rệt, càng cứng đặc, phân biệt gay gắt, tạo thành những bức tường ngăn cách tôi với thế giới, với người khác. Nhưng dù tôi không cố tình phân biệt (ý thức), thì cái mạt-na này vẫn liên tục âm thầm hoạt động, kể cả trong giấc mộng hay khi thiền định.

Thức biến thứ tám là A-lại-da, thức căn bản, thức nền tảng của bảy thức trước. Nó bao gồm, chứa đựng bảy thức trước. Nó được gọi là hàm tàng thức, chứa đựng, giữ gìn tất cả mọi kinh nghiệm, mọi hành động (nghiệp) , mọi khuynh hướng, ước muốn, mọi hoạt động xấu tốt đã được gieo trong tất cả mọi kiếp sống. Nó được gọi là “dị thục”, vì nó gìn giữ nhân để chín muồi (dị thục) thành quả. Nó được gọi là “nhất thiết chủng” vì nó thu nhậngiữ gìn tất cả các hạt giống.

A-lại-da là vô phú và vô ký. Phú nghĩa là nhiễm ô, bất tịnh. Nó không nhất địnhnhiễm ô, bất tịnh, vì nó có thể mang giữ hạt giống thanh tịnh, không nhiễm ô. Nó là vô ký vì không nhất định là thiện hay bất thiện, do đó nó có thế chứa hạt giống thiện lẫn bất thiện. Vì hai tính chất này, nó như một kho chứa vô thức, không chọn lựa, mà các thức trước muốn bỏ vào đó thứ gì cũng được, nó chỉ việc mang giữ để chờ chín thành quả. Thỉnh thoảng, không vì lý do gì, không có sự kích động của ý thức và năm thức giác quan, một hình ảnh xa xôi nào đó lại khởi lên. Đó là sự biểu lộ của những hạt giống khuất xa đâu đó trồi lên trên bề mặt ý thức.

Đến thức A-lại-da thì sự chuyển biến trở thành vi tế nhất. Như kinh Giải Thâm Mật nói về thức A-đà-na (tức A-lại-da) như sau:

Thức A-đà-na sâu và tế
Những chủng tử như dòng nước xiết
Ta không chỉ dạy cho người thường
Vì họ sẽ chấp nó làm ngã.

Đó là sơ lược tám thức của Duy Thức tông.

Tám thức này sanh diệt, cho nên nằm trong vòng sanh tử. Vậy cái gì thoát ngoài sanh tử? Riêng về Duy Thức tông, A-lại-da được tịnh hóa thì A-lại-da trở thành Như Lai tạng, hay còn được gọi là Bạch tịnh thức hay Vô cấu thức (mà có nhà Duy thức gọi là thức thứ chín). Đây là cái mà Đại thừa nói chung gọi là tánh Không, pháp thân, Chân Như, Niết bàn… Như thế tám thức sanh diệt này, cái mà chúng ta gọi là sanh tử này, luôn luôn sanh diệt trên Niết-bàn, tánh Không, Pháp thân… bổn lai thanh tịnh. Đây chính là con đường giải thoát của Đại thừa.

Một thức là duyên sanh. Tám thức nương vào nhau mà hiện hữu nên cũng là duyên sanh. Luận Thành Duy Thức, kệ 15 và 17 nói:

Nương dựa thức căn bản
Năm thức theo duyên hiện
Đồng thời khởi hoặc không
Như sóng nương biển cả.

Tám thức chuyển biến thành

(Cái) phân biệt, (cái) bị phân biệt

Do đây (cái phân biệt), kia (cái bị phân biệt) đều không:

Nên tất cả duy thức.

Kinh Lăng Già nói:

Phàm phu không trí huệ
Tàng thức như biển cả
Nghiệp tướng ví như sóng
Y thí dụ mà hiểu.
Nếu nói về chân thật
Tâm kia không chân thật
Ví như biển hiện sóng
Bóng trong gương và mộng
Tất cả đồng thời hiện
Tâm, cảnh giới cũng thế.

Tất cả những gì chúng ta thấy nghe hay biết, tất cả thế giới đều là do thức biếnhiện có ra. Biến (Skt: parimana) có nghĩa là chuyển biến, biến thái, biến đổi, biến động.

Biến có nghĩa là động. Thức biến là thức động, thức sanh khởi và diệt chìm. “Cái sanh diệt là thức, cái chẳng sanh diệt là Trí” (Kinh Lăng Già).

Biến có nghĩa là sanh ra, biến hiện ra. Ba cõi được sanh ra, được hiện ra do thức chuyển biến. Kinh Lăng Nghiêm nói: “A-nan, tất cả chúng sanh luân hồi trong thế gian đều do hai cái Vọng Thấy điên đảo phân biệt. Ngay nơi Tâm Tánh mà phát sanh, nương theo nghiệp mà xoay vần. Thế nào là hai cái Vọng Thấy. Một là cái Vọng Thấy Biệt Nghiệp của chúng sanh. Hai là cái Vọng Thấy Đồng Phận của chúng sanh”.

Mỗi thức và hợp thể tám thức tạo thành thân tâm đều là duyên sanh, chuyển biến, sanh diệt, hợp tạo. Chẳng hạn, thức A-lại-da là do các chủng tử hợp thành; nếu khôngcác chủng tử thì không có thức A-lại-da.

Tất cả các thức đều duyên sanh, chuyển biến nên vô tự tánh.

Tất cả các thức đều duyên sanh, chuyển biến nên như huyễn.

2. Chuyển thức

Chúng ta đã đi lạc vào trong một thế giới hạn hẹp, phân mảnh, sanh diệt, và do đó không thật, bất toại nguyện_những đặc tính của Khổ đế. Nguyên nhân của thế giới không thật, bất toại nguyện ấy là do thức biến. Với một tâm thức đầy ô nhiễm bởi phiền não, thành kiến, chia cách, phân mảnh, tham sân, hôn trầm, loạn động… chính tâm thức ấy đã biến hiện ra thế giới không thật và bất toại nguyện này. Bởi thế, để hoàn nguyên lại thế giới thực, thế giới đúng như nó là, chúng ta phải giải trừ đi đến loại bỏ sự biến hiện méo mó của thức, chúng ta phải chuyển hóa thức.

Sự chuyển hóa này Duy Thức tông gọi là “chuyển thức thành Trí”. Thức A-lại-da chuyển hóa thành Đại viên cảnh trí, thức Mạt-na chuyển hóa thành Bình đẳng tánh trí, ý thức chuyển hóa thành Diệu quan sát trí, và năm thức giác quan chuyển hóa thành Thành sở tác trí. Luận Đại thừa Khởi Tín nói là chuyển Sanh diệt môn thành Chân Như môn.

Kinh Lăng Nghiêm nói là “Chuyển năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại về Như Lai Tạng”.

Hệ thống Bát Nhã gọi là “chuyển sắc, thọ, tưởng, hành, thức… thành tánh Không”. Vì vô tự tánh nên quán Không, vì như huyễn nên quán Huyễn.

Hệ thống Tantra mẹ của Mật giáo nói là “chuyển tất cả các thức về Tịnh Quang, Ánh Sáng Căn Bản, Tâm Nền Tảng” (Skt: prabhasvara. TT: odgsal. Clear Light).

Quá trình chuyển hóa này được các tông phái gọi chung là sự “tịnh hóa”.

Ngài Trí Khải, người sáng lập Thiên Thai tông, phân định quá trình thực hànhLục Diệu Pháp Môn: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh.

Đại sư Pháp Tạng của Hoa Nghiêm tông gọi là “Vọng tận hoàn nguyên quán”.

Đại sư Khuy Cơ của Duy Thức tông nói Duy Thức có năm lớp quán là: Khiển hư tồn thật, Xả lạm lưu thuần, Nhiếp mạt quy bổn, Ẩn liệt hiển thắng, Xả tướng chứng tánh.

Tóm lại, những phương pháp thực hành của Phật giáo đều để “chuyển sanh tử thành Niết bàn”. Chuyển “cái thấy lầm con rắn” trở thành “cái thấy đúng sợi dây thừng”. Chuyển cái thấy phân biệt “tất cả chỉ là sóng xung đột nhau” thành cái thấy “tất cả sóng đều là nước đại dương bình an một vị”. Chuyển tâm thức đóng băng cứng đặc trở lại thành nước. Chuyển muôn ngàn bóng thương ghét trở thành gương. Thấy hoa đốm loạn xạ giữa hư không cũng chính là hư không… Chuyển tướng thành tánh, thấy tất cả các tướng chính là tánh.

Nguyên nhân của thức biến, tạo ra kết quả là hiện ra một thế giới với không gianthời gian hạn hẹp, đứt đoạn mà chúng ta gọi là sanh tử. Không sanh diệt biến thànhsanh diệt, thanh tịnh biến thành bất tịnh, không thể phân chia biến thành phần hạn xung đột nhau.

Cái chúng ta gọi là không gian, Kinh Lăng Già nói:

“Thấy nhiều hình tướng khác nhau, ví như vàng chuyển biến thành các đồ dùng thì thấy có nhiều thứ hình dạng, mà chẳng phải tánh vàng có biến đổi… Nên biết vọng tưởng chuyển biến cũng như bơ và sữa, rượu và trái cây… đã chín mà thành. Hoặc có hoặc không, tất cả đều do tự tâm hiện, vô tự tánh, thật ra chẳng có sự chuyển biến. Đại Huệ, như thế, chúng sanh phàm phu tự vọng tưởng mới sanh ra sự tu tập. Đại Huệ, không có pháp hoặc sanh hoặc diệt, tất cả giống như thấy sự vật sanh trong mộng huyễn vậy”.

Về thời gian của chúng ta, Kinh Lăng Già nói:

“Sát-na (khoảnh khắc) là A-lại-da trong Như Lai tạng, thức cùng ý chung sanh là tập khí sát-na. Tập khí vô lậu thì chẳng phải sát na, chẳng phải chỗ người thường có thể biết. Người thường chấp trước sát-na luận, chẳng biết tất cả sát-na chẳng phải là (phi) sát-na, rồi khởi đoạn kiến phá hoại Vô vi Niết bàn”.

Kinh Lăng Già kết luận: “Khéo biết tự tâm hiện, chẳng đắm trước. Lìa tất cả vọng tưởng của tâm, ý, ý thức, gọi là Niết Bàn”.

Phương pháp thực hành nào cũng đều có mục đích chuyển thức cả. Chẳng hạn, Bố thí Ba la mậtbố thíy cứ trên tánh Không.

“Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh” là Bồ-đề tâm nguyện và Bồ-đề tâm hạnh của người tu đạo Bồ-tát. Công việc ấy không rời lìa tánh Không vô tự tánhnhư huyễn.

Lòng bi không rời tánh Không vô tự tánhnhư huyễn thì mới là Đại Bi, nghĩa là Đại Bi thì hợp nhất với tánh Không.

Kinh Kim Cương nói: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào phát tâm vô thượng Bồ đề thì phải sanh tâm như vầy: ta phải độ thoát tất cả chúng sanh, độ thoát tất cả chúng sanh rồi, mà thật không có một chúng sanh nào đã được độ thoát”.

Vì sao thế? Bởi vì, “Chúng sanh, chúng sanh ấy, Như Lai nói rằng chẳng phải chúng sanh, đó gọi là chúng sanh”.

Chúng sanh mà thật chẳng phải chúng sanh, đây là sự chuyển thức được Duy thức học nhấn mạnh nhiều nhất. Với sự nhấn mạnh ấy, Duy thức học đóng góp rất nhiều cho con đường tu Bồ-tát đạo. Một thí dụ: vô tự tánh, như huyễn giống như sự biết bơi. Người không biết bơi không thể nhảy xuống dòng sông sanh tử để cứu người. Còn người biết bơi, có cái thấy vô tự tánh, như huyễn, thì có thể nhảy xuống nước, hoạt động trong nước mà không chìm để cứu người.

Có lẽ, bất cứ người nào thực hành Bồ-tát đạo cũng thường ngân nga trong lòng mình câu kệ mở đầu Kinh Lăng Già. Ngân nga như một bài ca của con đường Bồ-tát:

Thế gian lìa sanh tử
Như hoa giữa hư không
Trí chẳng đắc có không
Mà hưng tâm đại bi.

Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa khỏi tâm thức
Trí chẳng đắc có không
Mà hưng tâm đại bi.

Xa lìa tưởng đoạn thường
Thế gian hằng như mộng
Trí chẳng đắc có không
Mà hưng tâm đại bi.

Biết nhân-pháp vô ngã
Phiền não chướng, sở tri
Thường thanh tịnh vô tướng
Mà hưng tâm đại bi.

Tất cả không Niết bàn
Không có Niết bàn (của) Phật
Không có Phật Niết bàn (nhập diệt)
Xa lìa giác, sở giác
Hoặc có hoặc không có
Là tất cả đều lìa.

Thấy Mâu-ni tịch tĩnh
Ấy là xa lìa sanh
Đây gọi là chẳng thủ
Đời này đời sau tịnh.

 

(Văn Hóa Phật Giáo 132)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11051)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12096)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12328)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20477)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12344)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12358)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11634)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11510)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22311)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13486)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29491)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11447)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16592)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11896)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16734)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 11985)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17845)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12518)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13049)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14660)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22488)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10490)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 13957)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13797)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13626)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13785)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13817)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14733)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13708)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18293)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22656)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15280)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17192)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22302)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14157)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12479)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11064)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17652)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13096)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 12993)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18690)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17064)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13382)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12807)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14586)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14548)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15743)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13406)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27278)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13078)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16586)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21289)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18688)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
(Xem: 22961)
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp khôngtự tính cá biệt.
(Xem: 19962)
Ðọc Bát Nhã Tâm Kinh, tôi thấy như có một luồng gió mới, nó phá bỏ tất cả quan niệm, chối bỏ luôn cả cái hiện hữu. Tôi viết bài nầy theo sự hiểu biết đơn giản của tôi...
(Xem: 9358)
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana, Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh; Nhà xuất bản Phương Đông
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant