Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

03. Nguyên nhân nhà sư Nhật Bản lấy vợ

18 Tháng Ba 201200:00(Xem: 12800)
03. Nguyên nhân nhà sư Nhật Bản lấy vợ
NGUYÊN NHÂN NHÀ SƯ NHẬT BẢN LẤY VỢ
Quán Như (thực hiện)

nhasunhat-quannhu-contentSau giờ học về “Các tôn giáo mới hình thành và hoạt động truyền đạo trên thế giới”, tôi trực tiếp phỏng vấn cư sỹ Giáo sư Nogawa Hiroyuki (野川博之 hiện đang giảng dạy ở Đại học Huyền Trang Đài Loan) về nguyên nhân người tu ở Nhật Bảngia thất. Giáo sư phúc đáp bằng bài văn dưới đây:

Trong tâm trí tôi, nhiều tự việnNhật Bảngia thất là chuyện bình thường, không có gì là bất ngờ. Từ khi còn nhỏ tôi đã chơi chung và rất thân cận với con cháu của trụ trì chùa, cho đến khi lớn lên tôi mới hiểu Phật giáo các nước khác rất nhiều so với Phật giáo Nhật Bản. Họ có cái nhìn không mấy thiện cảmthường dùng những từ đại ý như "hòa thượng phong hoa" để chỉ trích.

Trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến 1994, tôi đến Koyashan để học tập tại Phật học viện của Chân Ngôn tông, khi ấy tôi có cơ hội được sống chung với con cháu của các vị trụ trì trong chùa và tìm hiểu về sự truyền thừa từ trụ trì theo phương thức đó.

Tuy nhiên đối với vấn đề tại sao tổ tiên họ lại lập gia đình và truyền tự như vậy, họ chỉ giữ im lặng không nói cụ thể, từ đó tôi cũng hiểu được phần nào nguyên nhân họ xả bỏ giới Tỳ kheo để sống cuộc sống gia đình bình thường

Trong thời gian tôi học ở Phật học viện, tôi có quen thân với con cháu của chùa, song không ai muốn giải thích lý do tại sao tổ tiên của họ lại làm như vậy, cho đến khi tôi bắt đầu theo học cao học và tự tìm tư liệu về sự ẩn khuất của vấn đề lịch sử này.

Vào thời điểm ấy trong sách vở không có ghi chép bất cứ thông tin gì về nguyên nhân của vấn đề này. Trong thời gian tìm kiếm thì tôi đã phát hiện một vài tài liệu liên quan đến Thánh nhân Thân Loan (1173 ~1262) khai sơn Tịnh độ Chân tông về việc kết hôn lập gia đình, thì có rất nhiều bài viết ca ngợi hưởng ứng và được đa số người dân Nhật Bản thời bấy giờ tán đồng việc làm này.

Thánh nhân Thân Loan đã thông qua việc kết hôn lập gia đình để thực tiễn hóa Phật giáo trong tầng lớp bình dân và họ cho rằng không có gì là không tốt? Song Phật giáo Nhật Bản từ cận đại về trước, ngoài Tịnh độ Chân tôngquan điểm đó ra, thì 12 tông còn lại (Pháp Tướng, Hoa Nghiêm, Luật, Thiên Thai, Chân Ngôn, Tịnh Độ, Thời, Viên Thông Niệm Phật, Nhật Liên, Lâm Tế, Tào ĐộngHoàng Bá tông) đều nghiêm cấm, cho dù lý do cao thượng nào đi nữa Tỳ kheo vẫn không được kết hôn.

Đến thời đại Giang Hộ (Edo 1603~1867), Phật giáo trở thành quốc giáo. Tất cả mọi người dân là tín đồ của một ngôi chùa, lúc này tất cả các tự viện trở thành nơi đăng ký hộ khẩu hộ tịch, ký thác hài cốt, bài vị, bảo quản gia phổ của tín đồ. Do các công việc đó, nơi tự viện cần có rất nhiều người chuyên môn quản lý lĩnh vực này.

Khi đó, các vị Sa di nhỏ tuổi xuất gia trong các ngôi chùa ở quê hương, học tập Kinh sách cơ bản, đa số rời xa chùa mình đi đến Kinh đô học tập, nơi các trường học do các tông phái lập nên, có rất nhiều giáo sư giỏi và có nền kinh tế ổn định. Lúc này, Nhật Bản không có chiến tranh, văn hóa phát triển, một đất nước thái bình. Kết quả là tốt xấu cùng tồn tại, ở thủ đô Osaka và Đông Kinh, nơi chốn phồn hoa đô thị, các Sa di mới học Phật nhỏ tuổi bất hạnh đã bị vướng phải sự hấp dẫn của chốn hồng trần, phạm phải giới điều nhà Phật.

Bởi vì lúc này Phật giáoquốc giáo, nên các Tỳ kheo phạm giới đều bị tự việnpháp luật của quốc gia xử phạt. Nửa thế kỷ XIX về trước, các người đó bị đưa ra đảo Hachijo! Đây là hòn đảo ở phía nam của Kinh đô, không thể trồng lúa chỉ trồng được khoai lang, cư dân sống rất cực khổ. Các vị đó bị đày ra hòn đảo này, họ có học thức nên hay viết sách và soạn sách giáo khoa, đa số họ kết hôn với người vùng này sinh con đẻ cháu, họ làm việc cho các cơ quan nhà nước và dạy học ở các trường, cuộc sống của họ tương đối ổn định, và tất cả người dân đều đồng tình với họ. 

Sau năm 1840, bởi vì người đi học phạm giới đó quá nhiều, chính phủ và Tăng đoàn không có cách nào quản thúc được nữa. Cuối cùng, sau khi học xong có người đã đi cùng với người mình kết hôn về thăm cố hương và mang theo con nhỏ nữa. Thầy của họ khi ấy vô cùng khó chịu, song cuối cùng phải thu nhận những người đệ tử bất hiếu này.

Vì công việc quản lý hộ khẩu hộ tịch của tự viện không thể đình chỉ, nên họ phải vào làm công tác này để phục vụ quê hương. Kết quả, Nhật Bản có rất nhiều hình ảnh tự viện ở quê sau chùa phơi đồ trẻ em. Tuy vậy, nhưng họ vẫn là những người làm rất tốt công tác quản lý hộ khẩu hộ tịch, phần mộ và bài vị tổ tiên.

Đến năm 1868, trải qua một giai đoạn cách mạng, chính phủ mới của Nhật Bản cho đến hôm nay, họ đối với Phật giáo không còn nhiệt tình như trước, Phật giáo đã không còn địa vị quốc giáo. Song tuyệt đại đa số người dân Nhật Bản đều là tín đồ Phật giáo, họ đối với sự tín phụng cung kính tự viện giống như trước đây, các tôn giáo khác cố tình và đem rất nhiều tiền của để cải đạo người dân, nhưng hầu như không có kết quả gì, chỉ có truyền đạo ở các nơi dân tộc thiểu số, vì mọi người từ trí thức đến bình dân đều tin hiểu sâu vào giáo lý nhân duyên nghiệp báo, và tự viện cũng là nơi bảo hộ cho phần mộ bài vị và gia phổ của người dân.

Theo: Các vị tân Tăng Nhật Bản tìm vợ

______________________________________________________

NHÀ SƯ NHẬT BẢN LONG ĐONG TÌM VỢ
27/10/2011 13:03
Anh Ngọc

nhasunhat-quannhu-contentBáo điện tử Vnexpress.net vừa đăng bài "Sư Nhật Bản long đòng tìm vợ". Đặt ra bên cạnh cách đặt tít có phần câu khách, song thực trạng được nêu ra trong bài viết rất đáng để cộng đồng Phật giáo Việt Nam suy nghĩ về tầm nhìn, hướng phát triển đúng đắn của Phật giáo nước ngoài, ngõ hầu tránh vết xe đổ như Phật giáo Nhật Bản với hiện tượng Tân tăng và chùa không có người kế vị, cũng như Phật giáo mất chỗ đứng trong xã hội phát triển do không có cách thức hành đạo phù hợp. (BBT)

Các nhà sư Nhật Bản đang nỗ lực tìm kiếm người thừa kế cho các ngôi chùa của mình bằng cách tham gia các buổi mai mối tìm vợ.

Dân số già, tỷ lệ sinh giảm, cùng với cuộc sống đơn độc của các nhà sư đã gây ra mối lo ngại cho việc thừa kế theo cha truyền con nối ở các ngôi chùa ở Nhật Bản. Một số sự kiện mai mối dành cho các nhà sư, những người được phép kết hôn và có gia đình riêng, đã được tổ chức ở thủ đô Tokyo. Con gái của các gia đình sở hữu chùa mà không có con trai thừa kế cũng tham gia vào những sự kiện này để tìm các nhà sư làm chồng.

Một sự kiện mai mối vừa mới được văn phòng tư vấn thuộc giáo hội Phật giáo Nichiren Shu tổ chức gần đây.

"Chúng tôi muốn cho mọi người cơ hội để tìm được một bạn đời tốt", Telegraph dẫn lời phát ngôn viên của Nichiren Shu. "Sự kiện này dành cho con trai đời thứ hai hoặc thứ ba của các chủ chùa, các nhà sư từ các gia đình không theo đạo và con gái của các chủ chùa cần tìm người cai quản, chăm sóc chùa cho thế hệ tương lai. Những cô gái bình thường muốn kết hôn với các nhà sư cũng có thể tham gia".

Tiệc mai mối gần đây nhất của giáo hội này được tổ chức tại tầng 30 của một tòa nhà chọc trời, vùng Odaiba, thủ đô Tokyo. 51 nhà sư trong trang phục tân thời, được xếp ngồi vào các bàn và chính thức giới thiệu với những cô gái trẻ phù hợp.

"Rất khó để tìm được một cô gái trẻ muốn kết hôn với một nhà sư nếu chúng tôi không chủ động tiếp cận họ trong những cuộc gặp mặt như thế này", một nhà sư 27 tuổi đến từ Kurashiki, tỉnh Okayama nói.

Không chỉ các nhà sư lo ngại cho tương lai của các ngôi chùa, một cô gái 24 tuổi đến từ Ichinomiya, tỉnh Aichi chia sẻ: "Cha tôi là chủ một ngôi chùa và tôi có ba chị gái. Tôi muốn tìm một người có thể tiếp quản chùa cho cha mình".

Trong khi đó, một phụ nữ 37 tuổi khác, không thuộc gia đình sở hữa chùa, lại giải thích việc tham gia sự kiện này bằng một lý do rất thực tế. "Nếu bạn cưới một nhà sư có chùa riêng thì khác với cưới một doanh nhân, bạn chẳng phải lo lắng gì về chuyện chồng mình một ngày nào đó bị sa thải vì khi công ty cắt giảm nhân viên".

Phật giáo, tôn giáo lớn thứ hai ở Nhật Bản sau đạo Shinto, đã bị suy yếu trong những năm gần đây khi nhiều ngôi chùa không đủ nguồn tài chính để duy trì hoạt động. Ngày càng có nhiều dự án đổi mới được các chùa áp dụng nhằm thu hút sự quan tâm của mọi người và tăng nguồn thu nhập, trong đó có việc mở phòng nghe nhạc jazz, các thẩm mỹ viện trình diễn thời trang và các đêm nhạc hiphop.

Theo: vnexpress.net / phattuvietnam.net
_______________________________________

CÁC CÔ GÁI NHẬT THÍCH KẾT HÔN VỚI NHÀ SƯ

Thu Hoa biên dịch

nhasunhat-2-contentNhà sư đang là đối tượng được các cô gái Nhật "săn lùng" để kết hôn trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Ở Nhật, có một số hệ phái Phật giáo cho phép nhà sư kết hôn và họ hiện là những người giàu trong xã hội.

Do tình hình kinh tế Nhật Bản hiện không tốt, nhiều bạn trẻ buồn chán và tìm đến chùa chiền ngày một nhiều, các nhà sư cũng ngày càng trở thành tầng lớp được trọng vọng.

Xã hội thì trầm lắng, nhưng hương khói trong chùa thì ngày càng được đốt nhiều. Người ta trông chờ vào một sự chuyển biến tốt, phụ nữ muốn tìm những người nhiều tiền làm chồng.

Khi đến vãn cảnh một ngôi chùa, người ta có thể bắt gặp hình ảnh các cô gái trẻ và các nhà sư trao đổi danh thiếp với nhau, cùng mua tranh thư pháp hoặc xúm xít bên nhau chụp ảnh chung rất vui vẻ. Người ta có thể bắt gặp các nhà sư phóng xe máy từ chùa ra ngoài đi làm Phật sự.

Họ thường đi loại xe mô tô nhỏ chứ không đi xe phân khối lớn, vì có lẽ do ít vận động nên các nhà sư đi xe phân khối lớn hay gặp nguy hiểm. Sau một số vụ tai nạn giao thông bi thảm, các nhà sư đều coi xe phân khối lớn là mối nguy hại cho tính mạng. Chính vì vậy, hình ảnh người ta thường gặp là nhà sư đi xe máy lùn, chạy chầm chậm trên đường.

Các nhà sư Nhật Bản đều là những người giàu có, vậy thu nhập của họ từ đâu? Trước hết, do bán đất nghĩa địa. Bán đất làm mộ táng là một loại kinh doanh siêu lợi nhuận ở một quốc gia đất chật người đông như Nhật Bản. Một khoảnh đất để xây mộ có giá tới mấy triệu Yên.

Hơn nữa, theo tập quán của người Nhật, mộ của người thân mai táng trong chùa, tuy đã trả tiền mua đất, song hàng năm đều phải trả tiền để các nhà sư chăm sóc phần mộ giúp. Nhưng chùa thì làm sao có nhiều đất để bán?

Từ xa xưa, các Shogun và chư hầu đều có tập quán hiến đất cho nhà chùa như một thứ lễ vật để cầu phúc hoặc sám hối. Những khu đất đó, qua bao đời, đến nay, vẫn thuộc sở hữu của nhà chùa và trở thành món di sản để các nhà sư ngày nay sinh sống.

Thứ hai, tín ngưỡng tôn giáo của người Nhật khá độc đáo. Khi sống thì rất nhiều người theo Thần đạo, hoặc theo Cơ Đốc giáo, thậm chí vô thần, nhưng sau khi chết thì nhất định trở thành tín đồ Phật giáo để được về miền Tây Thiên cực lạc.

Muốn biến thành tín đồ đạo Phật, cần phải trải qua nghi thức đưa người chết vào chùa để nhà sư đặt cho một pháp hiệu, nếu không Phật tổ sẽ không thu nhận. Thông thường, muốn có một pháp hiệu phải trả hàng trăm ngàn Yên. Nếu khôngpháp hiệu thì nhà chùa sẽ không bán đất làm mộ táng cho.

Thứ ba, các nhà sư đi làm Phật sựđọc kinh cũng có một khoản thu không nhỏ. Khi có người chết, người ta thường mời nhà sư đến làm lễ và đọc kinh. Khi xong việc, họ được hậu tạ một khoản tiền không nhỏ.

Các vị trụ trì những ngôi chùa Nhật Bản phần lớn đều là con trai của trụ trì thế hệ trước.

giàu có, nhưng phần lớn các sư ở Nhật Bản đều khiêm nhường. Tuy nhiên, họ có thể tham dự vũ hội và ăn thịt ở bên ngoài nhà chùa và đặc biệt là có thể lấy vợ và sinh con.

Trên mạng Internet, người ta có thể đọc được những lời bà mẹ khuyên con gái: "Lấy nhà sư rất tốt, có thể tu tại gia giúp ta hiểu thêm về Phật phápđạo lý cuộc đời".

Các nhà sư sau khi lấy vợ sinh con, thường cùng vợ con sinh sống ở gần chùa để tiện cho việc vào chùa làm Phật sự
 
Theo: Tiền phong/ Thời báo Hoàn Cầu

12-08-2009 04:21:46

 


TU SĨ PHẬT GIÁO SRI LANKA ĐẦU TIÊN 
TRANH CỬ CHỨC TỔNG THỐNG

Thích Minh Trí dịch

Colombo, Sri Lanka – Ngày 28-11, các quan chức đảng Janasetha Peramuna cho hay, để lập kỳ tích trong lịch sử bầu cử của Sri Lanka, tu sỹ Phật giáo Battaramulle Seelaratana Thera sẽ ứng cử tổng thống trong kỳ bầu cử đã được ấn định tổ chức vào tháng Giêng năm 2010. 

Các quan chức này nói Thượng tọa Battaramulle Seelaratana Thera là vị tu sỹ Phật giáo đầu tiên của Sri Lanka tranh cử tổng thống, với tư cách đại diện đảng chính trị Janasetha Peramuna do ông lãnh đạo. Biểu tượng của đảng này là chiếc xe kéo.

Trái với đề nghị chung của liên minh đối lập là hủy bỏ chức tổng thống hành pháp, Thượng tọa Seelaratana Thera muốn quyền hành pháp vẫn nằm trong tay tổng thống vì ông tin rằng, sự thống nhất và ổn định đất nước phần lớn phụ thuộc vào khả năng điều hành của vị lãnh đạo

Các băng-rôn, áp-phích vận động tranh cử của nhà sư này đã được giăng lên trên các bức tường trong thủ đô Colombo.

Thượng tọa Battaramulle Seelaratana Thera cho biết liên minh cầm quyền của đương kim Tổng thống Mahinda Rajapaksa và liên minh đối lập của cựu Tổng tư lệnh Quân đội Sri Lanka, tướng Sarath Fonseka đã tiếp xúc với ông, nhưng họ chỉ nhất trí ủng hộ một phần trong chính sách của ông mà thôi.

Trong số các cam kết chính mà ông đưa ra gồm có: đặt Phật giáo lên vị trí cao nhất, đảm bảo quyền bình đẳng trong tất cả cộng đồng: Sinhala, Tamil, Hồi giáo và các nhóm sắc tộc khác, biến tiếng Sinhala, tiếng Tamil và tiếng Anh thành ngôn ngữ phổ thông của đất nước, cũng như thi hành chính sách kinh tế dựa vào nông nghiệp.

Ông Fonseka, vốn im hơi lặng tiếng trong các chính sách, khẳng định rằng, ông sẽ đại diện liên minh đối lập ra tranh cử trong kỳ bầu cử tổng thống sắp đến. Ông nói ông sẽ công bố kế hoạch tương lai trong cuộc họp báo đầu tiên của ông vào ngày Chủ nhật 28-11.

Với quyết định tham gia tranh cử tổng thống của lãnh đạo Mặt trận Tân Cánh tả Wickramabahu Karunaratne, các ứng cử viên tổng thống đã tăng lên 4 vị.

Cuộc bầu cử tổng thống Sri Lanka sẽ được tổ chức vào ngày 26-1-2010 và việc đề cử các ứng cử viên tổng thống thực hiện vào ngày 17-12-2009.

Những băng-rôn, áp-phích khổng lồ của Tổng thống Rajapskse đứng chung với tướng Fonseka tại các quảng trường của thủ đô Colombo sau chiến thắng phiến quân Hổ Tamil hồi tháng 5 vừa qua đã được thay thế bằng những bức ảnh đầy sắc mầu của Tổng thống Rajapakse.

Theo: Xinhuanet

11-30-2009 08:23:46

 


NHÀ SƯ ỨNG CỬ CHỨC VỤ TỔNG THỐNG: BI KỊCH?
Minh Thạnh

Đây có phải là một sự kiện đáng mừng của Sri Lanka, nơi mà Phật giáo là quốc giáo? Và Phật giáo Sri Lanka đã mạnh lên đến mức tu sĩ đã có thể là ứng viên tổng thống? Tất nhiên, nếu đắc cử, vị tổng thống tu sĩ đó sẽ điều hành đất nước dưới những ánh sáng của giáo lý Phật giáo.

Trong bài này, tôi xin trình bày ý kiến chủ quan của mình, rằng đó sẽ là một bi kịch, bi kịch ngay chính từ việc ứng cử.

Trong lịch sử Phật giáo thế giới, cũng như Phật giáo Việt Nam, chuyện nhà vua bỏ quyền lực ngai vàng đi tu không là chuyện lạ. 

Còn chuyện nhà sư bỏ áo cà sa ra đời làm vua, làm tổng thống giới hạn hơn, hay làm chính khách cũng có. Tuy nhiên, chuyện nhà sư ứng cử tổng thống, và có thể vừa là tu sĩ, vừa là tổng thống, thì có lẽ, đây là lần đầu tiên.

Câu hỏi đầu tiên được nêu ra, đây có phải là sự vận hành ngược chiều đạo Phật hay không? Đức Phật khuyên đệ tử xuất gia của Ngài phải xả bỏ tất cả, trong đó quyền lực là một.

Mục tiêu của hàng tại gia và hàng xuất gia hoàn toàn khác nhau.

Cho dù quan hệ giữa Phật giáo và chính quyền như thế nào đi nữa, việc mang hình tướng tăng ra tranh vị trí quyền lực nguyên thủ quốc gia chứa đựng trong nó nhiều mâu thuẫn.

Nếu nhà sư không được dân tín nhiệm, không đắc cử, thì chẳng đẹp gì cho Phật giáo.

Tổng thống một nước Nam Mỹ đương nhiệm, vốn xuất thân từ một giám mục Thiên Chúa giáo La Mã, khi đảm nhiệm chức vụ tổng thống còn phải từ chức giám mục. Đó là đối với Thiên Chúa La Mã, một giáo hội nặng yếu tố quyền lực, huống nữa là đối với Phật giáo, một tôn giáo cách ly người tu sĩ với thế tục bằng những giới cấm chặt chẽ.

Nếu đắc cử tổng thống, vị thượng tọa này sẽ giải quyết ra sao những mâu thuẫn giữa nhiệm vụ của một vị tổng thống và giới hạn mà một vị tăng sĩ Phật giáo phải tuân thủ? Ở đây, vấn đề càng gay gắt vì vị tăng sĩ đó là tăng sĩ Nam Tông, hệ phái mà giới luật được đề cao tuyệt đối.

Chính trị có những quy luật của nó và nó khác xa với việc tu hành trong một cương vị của một tu sĩ.

Bỏ qua một bên những mánh khóe, thủ đoạn, hãy còn nhiều vấn đề khác: quốc phòng, an ninh, nghi thức…Hoàn toàn không thể tham dự vào những vấn đề như vậy dưới hình tướng tăng sĩ.

Nếu tổng thống nước Sri Lanka là một chức vụ chỉ có tính nghi lễ, thì trong giới hạn đó, đã có bao nhiêu là mâu thuẫn đầy kịch tính.

Một ví dụ, vị nguyên thủ quốc gia đương nhiệm phải là người chủ trì các cuộc duyệt binh. Các loại xe tăng, hỏa tiễn, súng phòng không duyệt qua… một vị sư! Chắc chắn, không phải là một hình ảnh đẹp cho Phật giáo.

Bình thường, đặt một nhà sư xuất hiện bên cạnh một chiếc xe tăng chẳng hạn, thì chừng như đã là một sự chế nhạo.

Nhưng theo bài báo về việc này đăng trên Phattuvietnam.net, thì chức vụ tổng thống Sri Lanka là chức vụ nắm giữ quyền hành pháp.

Điều đó có nghĩa, nhà sư tổng thống nếu đắc cử sẽ phải phê duyệt những hợp đồng mua súng đạn, xe tăng, máy bay, tàu chiến… (chứ không dừng lại ở mức duyệt binh). Chỉ công việc đó thôi, cũng đã thấy tính chất bi kịch của vấn đề, chứ đừng nói đi sâu vào việc giải quyết những vấn đề an ninh, quốc phòng, nhất là ở một đất nước vừa trải qua nội chiến mang nặng màu sắc khủng bố, hận thù tôn giáo, dân tộc.

Nắm quyền hành pháp là nắm quyền “bóp cò súng” của một quốc gia. Không hiểu là vị tu sĩ, nếu là tổng thống, sẽ giải quyết mâu thuẫn là người lãnh đạo quân đội như thế nào.

Bên cạnh đó là hàng loạt các bài toán về kinh tế. Đó không phải là công việc của nhà tu hành.

Chúng ta cứ hình dung một tu sĩ Phật giáo đứng ra làm giám đốc điều hành một doanh nghiệp, thì cũng đủ thấy tính nan giải của vấn đề rồi. Ở đây, vị tăng sĩ đó điều hành nền kinh tế cả nước.

Đó là chưa kể đến việc một vị tu sĩ Phật giáo làm tổng thống ở một nước nhiều tôn giáo thì đồng thời sẽ hút vào đó bao nhiêu là mâu thuẫn.

Mặc cảm của những công dân theo các tôn giáo khác đương nhiên là tăng lên. Cho dù không làm gì cả để mà có va chạm, thì người ta cũng cảm thấy mặc cảm rồi.

Hình tướng tăng, một sự thể hiện hình thức của Tam bảo, ba ngôi cao quý siêu việt và thoát tục, xuất hiện trong một tư thế phức tạp, bối cảnh phức tạpnhiệm vụ phức tạp như thế, thì không phải chỉ là bi kịch cho chính cá nhân vị tăng sĩ đó, mà còn là vấn đề của nước Sri Lanka, vấn đề của Phật giáo.

Suy nghĩ chủ quan của người viết là vị thượng tọa Sri Lanka ứng cử tổng thống đang đưa Đạo Phật ở Sri Lanka vào một cuộc phiêu lưu chính trị. Mà điều tất nhiên, ảnh hưởng của nó đối với đạo Phật không chỉ giới hạn bên trong nước Sri Lanka.

Các giáo chủ đầy quyền lực của Cộng hòa Hồi giáo Iran còn không nắm lấy quyền lãnh đạo hành pháp của quốc gia này, mà chỉ giữ nhiệm vụ lãnh đạo tinh thần. Còn ở đây là một nhà sư Phật giáo và đất nước lại không ở trong tình trạng lý tưởng về tôn giáo như Iran.

Cuối cùng, điều băn khoăn của chúng tôi là không hiểu tư duy của Phật giáo Sri Lanka ngày nay ra sao mà một hiện tượng như vậy có thể xảy ra.

MT
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1254)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1619)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1741)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1305)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 997)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1306)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1791)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1357)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1460)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1287)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2587)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1280)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1305)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1587)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2511)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1513)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1332)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1304)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1409)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1505)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1747)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1427)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1290)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1569)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1601)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2208)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1374)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1850)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1518)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1857)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1354)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1630)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1485)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1450)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1167)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1545)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1516)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 957)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1406)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1554)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1799)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant