Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

06. Phật giáo Nhật Bảnthể không còn nữa

18 Tháng Ba 201200:00(Xem: 13020)
06. Phật giáo Nhật Bản có thể không còn nữa
PHẬT GIÁO NHẬT BẢN
THỂ KHÔNG CÒN NỮA

Minh Trí Trần Kim Long
Dịch từ Buddhism In Japan May Be Dying Out By Norimitsu Onishi
Đăng trên The New York Times


japan_monk-contentNgười Nhật từ lâu đã thực hiện một cách tiếp cận, dễ tính đến tôn giáo. Chẳng hạn như tại chùa Phật giáo họ giống những tiếng chuông để tiển đưa năm cũ, và vài giờ sau đó, tại đền thờ Thần Đạo, họ nghinh đón năm mới. Đám cưới họ lại dễ dàng theo nghi lễ Thần Đạo, hoặc Kitô giáo.

Tuy nhiên, khi nói đến đám tang, người Nhật có truyền thống không thể thay đổi, đến mức độ thường được gọi là “Tang Lễ Phật giáo”. Những dịch vụ về tang lễ và tưởng niệm thì là độc quyền của Phật Giáo.


Nhưng biểu hiện đó đã mô tả về một tôn giáo chỉ để phục vụ nhiều về nhu cầu của người chết hơn là với những người sống, và đang mất dần đi chổ đứng của mình trong xã hội Nhật Bản.


“Đó là hình ảnh của Phật Giáo tang lễ: rằng nó không đáp ứng nhu cầu tinh thần của dân chúng”, ông Ryoko Mori, vị lảnh đạo ở ngôi chùa Zuikoji xưa 700 năm, ở miền bắc Nhật Bản. “Trong đạo Hồi hay đạo Thiên Chúa, họ tổ chức bài giảng về những vấn đề tâm linh. Nhưng ở Nhật Bản ngày nay, rất ít nhà Sư Phật giáo làm điều đó. “


Ông Mori, 48 tuổi, vị Sư cả thứ 21 của đền thờ, cũng không dám chắc, liệu nó sẽ còn được tồn tại vào nhiệm kỳ thứ 22.


Ông nói, “Nếu Phật Giáo Nhật Bản không hành động ngay bây giờ, nó sẽ chết dần. Chúng ta không thể đủ khả năng để chờ đợi. Chúng ta phải làm điều gì đó. “


Ở khắp Nhật Bản, Phật giáo phải đối mặt với một sự giao thời của các vấn đề, một số người quen thuộc với các tôn giáo trong các quốc gia giàu có khác, chỉ có một số ít là có đức tin ở đây.


Việc thiếu người thừa kếTrụ Trì làm tổn hại những chùa do gia đình điều hành trên toàn quốc.


japan_buddhist_01-content

Trong khi quan tâm đến Phật giáo đang suy giảm ở các khu vực đô thị, thì nơi nông thôn, là nơi phát triển vững mạnh của tôn giáo, dân số đang bị giảm sút, vì các phật tử già nua chết đi mà mức sinh sản thì lại thấp.

Có lẽ đáng kể nhất, Phật giáo đang mất dần vị thế của mình vào ngành kỷ nghệ tang lễ, và nhiều hơn nữa người Nhật Bản đang chuyển sang sự lựa chọn nhà tang lễ hoặc là không muốn tổ chức đám tang nữa.


Trong những thế hệ kế tiếp, nhiều chùa ở nông thôn dự định sẽ đóng cửa, mang theo nhiều thế kỷ lịch sử địa phương với họ vào dĩ vãng và thêm vào các thay đổi nhân khẩu học đang diễn ra ở nông thôn Nhật bản.


Ở tại Oga, trên một bán đảo cùng tên, hướng về biển Nhật Bản tại tỉnh Akita, các nhà Sư Phật Giáo đang tìm kiếm bài toán về dân số và về kỷ nghệ đánh cá địa phương đang bị giảm sút.


“Không phải thổi phòng khi nói rằng dân số chỉ còn khoảng một nửa của thời cực thịnh và rằng tất cả các doanh nghiệp cũng đã được giảm một nửa”, -- ông Giju Sakamoto, 74 tuổi, vị Sư Cả thứ 91 của ngôi chùa cổ nhất ở Akita là Chorakuji, đã được sáng lập khoảng năm 860. -- “Bằng với thực tế đó, chỉ cần nhấn mạnh nói rằng chúng ta có một tôn giáo và có một lịch sử lâu dài nhất tại Akita. Nghe như một câu chuyện cổ tích. Thật là vô nghĩa.


“Đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng nơi này là vượt quá niềm hy vọng”, ông Sakamoto nói tại ngôi đền của mình, xây trên đỉnh một mõm núi nhìn xuống một ngôi làng ven biển.


Để tồn tại, ông Sakamoto đã ra sức của mình để quản lý một nhà dưỡng lão và một ngôi chùa mới ở ngoại ô thành phố Akita đang phát triển. Tuy nhiên, ngôi chùa đó chỉ có 60 hộ gia đình là thành viên phật tử kể từ khi nó lập ra một vài năm trước đây, xa hẳn con số 300 được cho là cần thiết cho một ngôi chùa để có thể duy trì tài chính.


Trong nhiều thế kỷ, một ngôi chùa Phật giáo, được lưu truyền từ đời cha sang con trai cả, phục vụ một số phật tử cố định, hiếm khi cải đạo. Với một số 300 hộ gia đình phật tử để phục vụ, Sư trụ trì của ngôi chùa và vợ của ông lúc nào cũng bận rộn.


Theo tin của cơ quan Văn Hoá Nhật Bản, không chỉ có số lượng các ngôi chùa ở Nhật Bản đang suy giảm còn 85,994 trong năm 2006, từ 86,586 trong năm 2000, mà phật tử ở các chùa cũng đã giảm sút nữa.


“Chúng tôi phải tìm thêm việc làm khác vì các ngôi chùa một mình là không đủ”, -- Bà Kyo Kon, 73 tuổi, vợ vị sư trụ trì tại chùa Kogakuin, một ngôi chùa với 170 phật tử, bà từng làm việc tại một trung tâm chăm sóc ban ngày trong khi chồng bà làm việc ở một văn phòng quy hoạch đất của địa phương.


Không xa ở Doshoji, một ngôi chùa mà thành viên đã giảm đến 85 hộ gia đình người cao tuổi, Sư trụ trì, Jokan Takahashi, 59 tuổi, đã phải đối mặt với một vấn đề quen thuộc với hầu hết các tiểu doanh nghiệp ở Nhật Bản: tìm ra một người kế vị.


Con trai của ông đã trải qua cả việc đào tạo để trở thành một thầy tu Phật giáo, nhưng ông Takahashi có vẽ không muốn nhận ngôi chùa:


“Con trai tôi lớn lên không biết gì ngoài việc của chùa, và nói với tôi là đã không cảm thấy tự do,” -- ông giải thích rằng con trai của ông, bây giờ 28 tuổi, đang làm việc tại một công ty ở thành phố gần đó. Con tôi yêu cầu tôi để cho anh ta được tự do, khi nào tôi còn làm việc, và nói rằng nó sẽ trở lại tiếp nhận chùa khi được 35 tuổi.


“Nhưng xét trong tương lai, áp lực một người trẻ tuổi để tiếp nhận một ngôi chùa như thế này có thể là độc ác”, ông Takahashi cho biết, sau khi dẫn du khách đi xem căn phòng quan trọng nhất của ngôi chùa, một buồng bên trong với những ngăn tủ gỗ nơi cất giử các di cốt của tổ tiên các thành viên của mình.


Vào một buổi sáng gần đây, ông Mori, vị Sư của ngôi chùa cổ 700 năm, bắt đầu một ngày với chuyến viếng thăm một hộ gia đình trồng lúa đánh dấu kỷ niệm 33 năm về cái chết của ông nội. Lạy trước bàn thờ nhà, ông Mori đã cầu nguyệnđọc kinh điển. Sau đó, ông lại đến lễ tại hộ gia đình khác, để kỷ niệm lần thứ bảy về cái chết của ông nội của họ.


Ngày càng có nhiều người Nhật, đặc biệt là ở các vùng đô thị, cố tránh những truyền thống. Nhiều người không còn thuộc về chùa nữa và xử dụng nhà tang lễ khi thân nhân của họ chết. Các nhà tang lễ của Phật giáo cung cấp các vị Sư cho các đám tang. Theo một báo cáo năm 2007 của Hiệp hội Người Tiêu Dùng Nhật Bản, chi phí trung bình của một đám tang, không bao gồm các lô đất nghĩa trang, giá là $21,500, trong đó $5,100 là dịch vụ được thực hiện bởi một nhà Sư Phật giáo.


Như gần đây, giữa thập niên 1980, hầu hết người Nhật tổ chức các đám tang tại nhà hoặc tại chùa, với nhà Sư Phật giáo địa phương đóng vai trò chánh.


Nhưng sự chuyển sang nhà tang lễ đã tăng rất nhanh trong thập niên qua. Năm 1999, 62 phần trăm vẫn tổ chức đám tang ở nhà hay ở chùa, trong khi 30 phần trăm đã chọn nhà tang lễ, theo Hiệp hội của người tiêu dùng. Nhưng trong năm 2007, các sự việc trên đã đảo ngược, với 28 phần trăm chọn đám tang ở nhà hay ở chùa, và 61 phần trăm chọn cho nhà tang lễ.


Ngoài ra, một số lượng ngày càng tăng của người Nhật đã quyết định hỏa táng người thân của mình mà không có bất kỳ tang lễ ở tất cả. Noriyuki Ueda, một nhà nhân chủng học tại Viện Công nghệ Tokyo và một chuyên gia về Phật giáo đã cho biết.


“Do đó, các vị Sư và ngôi chùa Phật giáo sẽ không còn được tham gia vào đám tang”, ông Ueda cho biết.


Ông Mori, vị Sư ở đây, nói rằng sau khi chiến tranh đã có một mong muốn cho đám tang ngày càng sang trọng với những Pháp Danh. Những danh hiệu này với cấp bậc cao nhất theo truyền thống được trao cho những người đã dẫn đầu cuộc sống đáng kính, thì bây giờ là một sự mua bán bất kể hành vi trong cuộc sống của một người đã chết như thế nào.


“Binh lính, những người đã hy sinh cho đất nước, đặc biệt được ban cho Pháp Danh, vì vậy sau đó, tất cả mọi người đều muốn có một Pháp Danh, và vì thế giá cả tăng lên đáng kể”, ông Mori nói. “Cuộc sống mọi người được khá giả hơn, do đó, mọi người đều muốn một tên”.


“Nhưng điều đó đã cho chúng tôi một hình ảnh xấu,” ông nói thêm rằng giá của tên quí nhất tại Akita vào khoảng $ 3,000, mặc dù đó chỉ là một phần nhỏ so với giá ở Tokyo.


Thật vậy, hình ảnh đó cho thấy sự kinh doanh làm các đám tang và các dịch vụ tưởng niệm được tiến hành. Lệ phí không quy định và được theo quyết định của gia đình, và các thân nhân thường cảm thấy một áp lực không phải nói là khá hào phóng. Tiền được bàn giao trong bao thư, và biên lai thì không có. Các chùa, với tình trạng là một tổ chức tôn giáo, không phải đóng thuế.


Để xóa đi một phần nào hình ảnh xấu này mà Kazuma Hayashi, 41 tuổi, một vì Sư Phật giáo mà không có một ngôi đền của chính mình, cho biết là ông thành lập một công ty, Obohsan.com
(obohsan có nghĩa là Sư), ba năm trước tại một vùng ngoại ô Tokyo. Công ty phân phối các vị Sư Phật giáo đến đám tang và các dịch vụ khác, tách ra khỏi nhà tang lễ và người trung gian khác.

japan_buddhist_02-content

Giá cả, ít nhất là một phần ba thấp hơn mức trung bình, được liệt kê rõ ràng trên trang web của công ty. Giảm giá 10 phần trăm cho các thành viên.

“Chúng tôi thậm chí còn đưa ra biên lai,” ông Hayashi nói.


Ông Hayashi cho rằng thay vì tách rời Phật Tử Nhật ra khỏi nguồn cội tâm linh của mình, kinh doanh của ông đã thu hút được nhiều người hơn vì giá cả của nó thấp hơn. Các Pháp Danh cao cấp nhất giá vào khoảng $1,500, một giá quá rẽ.


Ông Hayashi cho biết về những Pháp Danh cao quí nhất : “Ban đầu, tôi biết rằng, đó không phải là tiêu biểu của Phật giáo, nhưng đó là một thương hiệu mà khách hàng của chúng tôi lựa chọn. Một số thực sự muốn nó, vì vậy có nghĩa là có một ham muốn mạnh mẽ ở đó, và chúng tôi bắt buộc phải đáp ứng điều đó”.


Sau khi xin lỗi cho những lý tưởng Phật giáo lạc lối, ông Hayashi cho biết ông đã bán cho khách hàng của mình Pháp Danh cao quí nhất, với một cảnh báo: “Thật sự, bạn phải nhận thức có sự khác biệt giữa khi đi vào một cửa hàng ở thị xã và mua một túi xách Gucci với sự mua một Pháp Danh cao quí nhất. “


Minh Trí Trần Kim Long
Dịch từ Buddhism In Japan May Be Dying Out By Norimitsu Onishi
Đăng trên The New York Times,…
(Nguồn: http://thoisuphatphap.wordpress.com)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 118)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 147)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 218)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 199)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 180)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 217)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 231)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 315)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 421)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 433)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 527)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 787)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 796)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 669)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 680)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 790)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 810)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 673)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 678)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 799)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 786)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 809)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 791)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 836)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 863)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1577)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1022)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 920)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1085)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1081)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1506)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1937)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1312)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1058)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 913)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1071)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1229)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1251)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1146)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant