Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

06. Phật giáo Nhật Bảnthể không còn nữa

18 Tháng Ba 201200:00(Xem: 12894)
06. Phật giáo Nhật Bản có thể không còn nữa
PHẬT GIÁO NHẬT BẢN
THỂ KHÔNG CÒN NỮA

Minh Trí Trần Kim Long
Dịch từ Buddhism In Japan May Be Dying Out By Norimitsu Onishi
Đăng trên The New York Times


japan_monk-contentNgười Nhật từ lâu đã thực hiện một cách tiếp cận, dễ tính đến tôn giáo. Chẳng hạn như tại chùa Phật giáo họ giống những tiếng chuông để tiển đưa năm cũ, và vài giờ sau đó, tại đền thờ Thần Đạo, họ nghinh đón năm mới. Đám cưới họ lại dễ dàng theo nghi lễ Thần Đạo, hoặc Kitô giáo.

Tuy nhiên, khi nói đến đám tang, người Nhật có truyền thống không thể thay đổi, đến mức độ thường được gọi là “Tang Lễ Phật giáo”. Những dịch vụ về tang lễ và tưởng niệm thì là độc quyền của Phật Giáo.


Nhưng biểu hiện đó đã mô tả về một tôn giáo chỉ để phục vụ nhiều về nhu cầu của người chết hơn là với những người sống, và đang mất dần đi chổ đứng của mình trong xã hội Nhật Bản.


“Đó là hình ảnh của Phật Giáo tang lễ: rằng nó không đáp ứng nhu cầu tinh thần của dân chúng”, ông Ryoko Mori, vị lảnh đạo ở ngôi chùa Zuikoji xưa 700 năm, ở miền bắc Nhật Bản. “Trong đạo Hồi hay đạo Thiên Chúa, họ tổ chức bài giảng về những vấn đề tâm linh. Nhưng ở Nhật Bản ngày nay, rất ít nhà Sư Phật giáo làm điều đó. “


Ông Mori, 48 tuổi, vị Sư cả thứ 21 của đền thờ, cũng không dám chắc, liệu nó sẽ còn được tồn tại vào nhiệm kỳ thứ 22.


Ông nói, “Nếu Phật Giáo Nhật Bản không hành động ngay bây giờ, nó sẽ chết dần. Chúng ta không thể đủ khả năng để chờ đợi. Chúng ta phải làm điều gì đó. “


Ở khắp Nhật Bản, Phật giáo phải đối mặt với một sự giao thời của các vấn đề, một số người quen thuộc với các tôn giáo trong các quốc gia giàu có khác, chỉ có một số ít là có đức tin ở đây.


Việc thiếu người thừa kếTrụ Trì làm tổn hại những chùa do gia đình điều hành trên toàn quốc.


japan_buddhist_01-content

Trong khi quan tâm đến Phật giáo đang suy giảm ở các khu vực đô thị, thì nơi nông thôn, là nơi phát triển vững mạnh của tôn giáo, dân số đang bị giảm sút, vì các phật tử già nua chết đi mà mức sinh sản thì lại thấp.

Có lẽ đáng kể nhất, Phật giáo đang mất dần vị thế của mình vào ngành kỷ nghệ tang lễ, và nhiều hơn nữa người Nhật Bản đang chuyển sang sự lựa chọn nhà tang lễ hoặc là không muốn tổ chức đám tang nữa.


Trong những thế hệ kế tiếp, nhiều chùa ở nông thôn dự định sẽ đóng cửa, mang theo nhiều thế kỷ lịch sử địa phương với họ vào dĩ vãng và thêm vào các thay đổi nhân khẩu học đang diễn ra ở nông thôn Nhật bản.


Ở tại Oga, trên một bán đảo cùng tên, hướng về biển Nhật Bản tại tỉnh Akita, các nhà Sư Phật Giáo đang tìm kiếm bài toán về dân số và về kỷ nghệ đánh cá địa phương đang bị giảm sút.


“Không phải thổi phòng khi nói rằng dân số chỉ còn khoảng một nửa của thời cực thịnh và rằng tất cả các doanh nghiệp cũng đã được giảm một nửa”, -- ông Giju Sakamoto, 74 tuổi, vị Sư Cả thứ 91 của ngôi chùa cổ nhất ở Akita là Chorakuji, đã được sáng lập khoảng năm 860. -- “Bằng với thực tế đó, chỉ cần nhấn mạnh nói rằng chúng ta có một tôn giáo và có một lịch sử lâu dài nhất tại Akita. Nghe như một câu chuyện cổ tích. Thật là vô nghĩa.


“Đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng nơi này là vượt quá niềm hy vọng”, ông Sakamoto nói tại ngôi đền của mình, xây trên đỉnh một mõm núi nhìn xuống một ngôi làng ven biển.


Để tồn tại, ông Sakamoto đã ra sức của mình để quản lý một nhà dưỡng lão và một ngôi chùa mới ở ngoại ô thành phố Akita đang phát triển. Tuy nhiên, ngôi chùa đó chỉ có 60 hộ gia đình là thành viên phật tử kể từ khi nó lập ra một vài năm trước đây, xa hẳn con số 300 được cho là cần thiết cho một ngôi chùa để có thể duy trì tài chính.


Trong nhiều thế kỷ, một ngôi chùa Phật giáo, được lưu truyền từ đời cha sang con trai cả, phục vụ một số phật tử cố định, hiếm khi cải đạo. Với một số 300 hộ gia đình phật tử để phục vụ, Sư trụ trì của ngôi chùa và vợ của ông lúc nào cũng bận rộn.


Theo tin của cơ quan Văn Hoá Nhật Bản, không chỉ có số lượng các ngôi chùa ở Nhật Bản đang suy giảm còn 85,994 trong năm 2006, từ 86,586 trong năm 2000, mà phật tử ở các chùa cũng đã giảm sút nữa.


“Chúng tôi phải tìm thêm việc làm khác vì các ngôi chùa một mình là không đủ”, -- Bà Kyo Kon, 73 tuổi, vợ vị sư trụ trì tại chùa Kogakuin, một ngôi chùa với 170 phật tử, bà từng làm việc tại một trung tâm chăm sóc ban ngày trong khi chồng bà làm việc ở một văn phòng quy hoạch đất của địa phương.


Không xa ở Doshoji, một ngôi chùa mà thành viên đã giảm đến 85 hộ gia đình người cao tuổi, Sư trụ trì, Jokan Takahashi, 59 tuổi, đã phải đối mặt với một vấn đề quen thuộc với hầu hết các tiểu doanh nghiệp ở Nhật Bản: tìm ra một người kế vị.


Con trai của ông đã trải qua cả việc đào tạo để trở thành một thầy tu Phật giáo, nhưng ông Takahashi có vẽ không muốn nhận ngôi chùa:


“Con trai tôi lớn lên không biết gì ngoài việc của chùa, và nói với tôi là đã không cảm thấy tự do,” -- ông giải thích rằng con trai của ông, bây giờ 28 tuổi, đang làm việc tại một công ty ở thành phố gần đó. Con tôi yêu cầu tôi để cho anh ta được tự do, khi nào tôi còn làm việc, và nói rằng nó sẽ trở lại tiếp nhận chùa khi được 35 tuổi.


“Nhưng xét trong tương lai, áp lực một người trẻ tuổi để tiếp nhận một ngôi chùa như thế này có thể là độc ác”, ông Takahashi cho biết, sau khi dẫn du khách đi xem căn phòng quan trọng nhất của ngôi chùa, một buồng bên trong với những ngăn tủ gỗ nơi cất giử các di cốt của tổ tiên các thành viên của mình.


Vào một buổi sáng gần đây, ông Mori, vị Sư của ngôi chùa cổ 700 năm, bắt đầu một ngày với chuyến viếng thăm một hộ gia đình trồng lúa đánh dấu kỷ niệm 33 năm về cái chết của ông nội. Lạy trước bàn thờ nhà, ông Mori đã cầu nguyệnđọc kinh điển. Sau đó, ông lại đến lễ tại hộ gia đình khác, để kỷ niệm lần thứ bảy về cái chết của ông nội của họ.


Ngày càng có nhiều người Nhật, đặc biệt là ở các vùng đô thị, cố tránh những truyền thống. Nhiều người không còn thuộc về chùa nữa và xử dụng nhà tang lễ khi thân nhân của họ chết. Các nhà tang lễ của Phật giáo cung cấp các vị Sư cho các đám tang. Theo một báo cáo năm 2007 của Hiệp hội Người Tiêu Dùng Nhật Bản, chi phí trung bình của một đám tang, không bao gồm các lô đất nghĩa trang, giá là $21,500, trong đó $5,100 là dịch vụ được thực hiện bởi một nhà Sư Phật giáo.


Như gần đây, giữa thập niên 1980, hầu hết người Nhật tổ chức các đám tang tại nhà hoặc tại chùa, với nhà Sư Phật giáo địa phương đóng vai trò chánh.


Nhưng sự chuyển sang nhà tang lễ đã tăng rất nhanh trong thập niên qua. Năm 1999, 62 phần trăm vẫn tổ chức đám tang ở nhà hay ở chùa, trong khi 30 phần trăm đã chọn nhà tang lễ, theo Hiệp hội của người tiêu dùng. Nhưng trong năm 2007, các sự việc trên đã đảo ngược, với 28 phần trăm chọn đám tang ở nhà hay ở chùa, và 61 phần trăm chọn cho nhà tang lễ.


Ngoài ra, một số lượng ngày càng tăng của người Nhật đã quyết định hỏa táng người thân của mình mà không có bất kỳ tang lễ ở tất cả. Noriyuki Ueda, một nhà nhân chủng học tại Viện Công nghệ Tokyo và một chuyên gia về Phật giáo đã cho biết.


“Do đó, các vị Sư và ngôi chùa Phật giáo sẽ không còn được tham gia vào đám tang”, ông Ueda cho biết.


Ông Mori, vị Sư ở đây, nói rằng sau khi chiến tranh đã có một mong muốn cho đám tang ngày càng sang trọng với những Pháp Danh. Những danh hiệu này với cấp bậc cao nhất theo truyền thống được trao cho những người đã dẫn đầu cuộc sống đáng kính, thì bây giờ là một sự mua bán bất kể hành vi trong cuộc sống của một người đã chết như thế nào.


“Binh lính, những người đã hy sinh cho đất nước, đặc biệt được ban cho Pháp Danh, vì vậy sau đó, tất cả mọi người đều muốn có một Pháp Danh, và vì thế giá cả tăng lên đáng kể”, ông Mori nói. “Cuộc sống mọi người được khá giả hơn, do đó, mọi người đều muốn một tên”.


“Nhưng điều đó đã cho chúng tôi một hình ảnh xấu,” ông nói thêm rằng giá của tên quí nhất tại Akita vào khoảng $ 3,000, mặc dù đó chỉ là một phần nhỏ so với giá ở Tokyo.


Thật vậy, hình ảnh đó cho thấy sự kinh doanh làm các đám tang và các dịch vụ tưởng niệm được tiến hành. Lệ phí không quy định và được theo quyết định của gia đình, và các thân nhân thường cảm thấy một áp lực không phải nói là khá hào phóng. Tiền được bàn giao trong bao thư, và biên lai thì không có. Các chùa, với tình trạng là một tổ chức tôn giáo, không phải đóng thuế.


Để xóa đi một phần nào hình ảnh xấu này mà Kazuma Hayashi, 41 tuổi, một vì Sư Phật giáo mà không có một ngôi đền của chính mình, cho biết là ông thành lập một công ty, Obohsan.com
(obohsan có nghĩa là Sư), ba năm trước tại một vùng ngoại ô Tokyo. Công ty phân phối các vị Sư Phật giáo đến đám tang và các dịch vụ khác, tách ra khỏi nhà tang lễ và người trung gian khác.

japan_buddhist_02-content

Giá cả, ít nhất là một phần ba thấp hơn mức trung bình, được liệt kê rõ ràng trên trang web của công ty. Giảm giá 10 phần trăm cho các thành viên.

“Chúng tôi thậm chí còn đưa ra biên lai,” ông Hayashi nói.


Ông Hayashi cho rằng thay vì tách rời Phật Tử Nhật ra khỏi nguồn cội tâm linh của mình, kinh doanh của ông đã thu hút được nhiều người hơn vì giá cả của nó thấp hơn. Các Pháp Danh cao cấp nhất giá vào khoảng $1,500, một giá quá rẽ.


Ông Hayashi cho biết về những Pháp Danh cao quí nhất : “Ban đầu, tôi biết rằng, đó không phải là tiêu biểu của Phật giáo, nhưng đó là một thương hiệu mà khách hàng của chúng tôi lựa chọn. Một số thực sự muốn nó, vì vậy có nghĩa là có một ham muốn mạnh mẽ ở đó, và chúng tôi bắt buộc phải đáp ứng điều đó”.


Sau khi xin lỗi cho những lý tưởng Phật giáo lạc lối, ông Hayashi cho biết ông đã bán cho khách hàng của mình Pháp Danh cao quí nhất, với một cảnh báo: “Thật sự, bạn phải nhận thức có sự khác biệt giữa khi đi vào một cửa hàng ở thị xã và mua một túi xách Gucci với sự mua một Pháp Danh cao quí nhất. “


Minh Trí Trần Kim Long
Dịch từ Buddhism In Japan May Be Dying Out By Norimitsu Onishi
Đăng trên The New York Times,…
(Nguồn: http://thoisuphatphap.wordpress.com)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1254)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1619)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1741)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1306)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 997)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1306)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1792)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1358)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1460)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1287)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2588)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1280)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1305)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1588)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1565)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1529)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1364)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2511)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1513)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1499)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1282)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1332)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1497)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1452)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1334)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1305)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1415)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2067)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1443)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1410)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1513)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1748)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1428)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1298)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1570)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1307)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1602)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2216)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1375)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1850)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1576)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1665)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1518)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1858)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1566)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1354)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1631)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1486)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1450)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1242)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1167)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1208)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1433)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1546)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1524)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 958)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1406)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1416)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1554)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1799)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant