Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật trong nhà, Phật ngoài vườn

24 Tháng Chín 201000:00(Xem: 16823)
Phật trong nhà, Phật ngoài vườn

Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí, hay trần tục hóa: như món đồ trang sức của những kẻ mến mộ. Thế nên, tượng Phật không chỉ ngự ở bàn thờ, không chỉ ngự ở trong nhà, mà còn ngự ở ngoài vườn, công viên!

1. Kinh Tăng nhất A hàm kể rằng, ngày nọ, Đức Thế Tôn nhận thấy tứ chúng có phần giải đãi; khiến cho họ khát ngưỡng Chánh pháp, Ngài đã lặng lẽ rời khỏi Kỳ Hoàn, đến thuyết pháp tại cõi trời Tam thập tam (Đao Lợi). Trong số hội chúng chư thiên nghe phápThích Đề Hoàn NhơnMa Gia hoàng hậu.

phattrongnhangoaivuon-1-content

Ảnh minh họa

Bốn bộ chúngnhân gian lâu không thấy Phật, bèn đến hỏi Tôn giả A Nan, nhưng Tôn giả cũng không rõ biết. Vua Ba Tư NặcƯu Điền không gặp được Như Lai cùng sinh sầu khổ. Quần thần hỏi vua Ưu Điền lo sầu việc gì mà sinh bệnh? Vua đáp: “Do chẳng thấy Như Lai, nếu không thấy Như Lai, ta sẽ chết mất!”. Quần thần do đó nghĩ rằng nên tạo hình tượng Phật, để cho vua “cung kính, thừa sự, lễ bái”, như thấy Phật ở bên cạnh, không lo sầu đến nỗi mạng chung.

Tượng Như Lai được tạc nên từ gỗ ngưu đầu chiên đàn, cao năm thước, khiến vua Ưu Điền rất mực hoan hỷ mà hết bệnh. Vua Ba Tư Nặc nghe vậy cũng cho người dùng vàng tử ma đúc nên hình tượng Như Lai, cao bằng với tượng Phật của vua Ưu Điền.

Đó chính là hai pho tượng Phật đầu tiên ở cõi Diêm Phù Đề(1).

2. Ngay từ buổi đầu, tượng Phật được tạo nên là để cho vua, rộng ra là cho tứ chúng, “cung kính, thừa sự, lễ bái”, như kinh Tăng nhất A hàm đã nói. Điều này khởi đầu cho việc thờ Phật - lễ Phật như ngày nay, tức thờ và lễ hình tượng Phật.

Trong truyền thống văn hóa Ấn Độ, năm vóc sát đất (lạy) là lối chào cung kính nhất. Chúng đệ tử chào Đức Thế Tôn theo cách này, “cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán mình lên chân Ngài để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng”. “Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem như Ngài còn tại thế, và cái cử chỉ cúi xuống ôm chân Phật vẫn còn tiếp nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy có công dụng làm cho tín đồ bao giờ cũng hình dung như Đức Phật còn ngồi trước mặt mình để chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết tha của mình”(2).

Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rằng, cử chỉ ấy về sau không đơn thuần là lối chào nữa mà bao hàm nhiều ý nghĩa, trong đó có cả sự quy ngưỡng, sám hốicầu nguyện. Văn Lương Hoàng sám có đoạn: “Kính lạy vô lượng hình tượng Phật khắp cả mười phương, cùng tận không giới, tượng vàng và tượng đàn hương của vua Ưu Điền tạo ra, tượng đồng của vua A Dục tạo ra, tượng đá ở Trung Hoa, tượng ngọc ở Tích Lan, và hết thảy các tượng khắp trong các quốc độ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não…”. “Nguyện xin Tam bảo đem nước đại bi mà rửa sạch tội lỗi nhơ bẩn cho hết thảy chúng sanh hiện chịu khổ trong địa ngục A Tì và tất cả các địa ngục khác, làm cho họ thân tâm thanh tịnh…”(3).

Lễ hình tượng Phật rõ ràng cũng là một pháp tu, vì thế đã có những bộ kinh chỉ thuần về danh hiệu Phật, Bồ tát, nổi tiếng như kinh Vạn Phật, Tam thiên Phật, Ngũ bách danh Quán Thế Âm,…; và những sám văn lễ Phật sám hối như: Lương Hoàng sám pháp, Từ bi đạo tràng sám pháp, v.v…

Thờ Phật song hành với việc lễ lạy, cho nên bàn Phật thường được quan tâm thiết trí tại nơi tôn nghiêm nhất của gia đình. “Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà (…). Nếu nhà lầu thì thờ Phật ở tầng trên”(4). Quan niệm thờ Phật như thế mặc dù đúng pháp, nhưng ít nhiều đã tạo nên sự xa cách giữa hình ảnh Đức Phật từ bi với đời sống chật vật, âu lo và đầy đau khổ của con người. Trong sâu thẳm tâm hồn, con người cần một Đức Phật gần gũi hơn!

phattrongnhangoaivuon-2-content

Ảnh minh họa

3. Pho tượng Phật đầu tiên rõ ràng được tạo nên từ chính cái “tình” của vua Ưu Điền đối với Phật. Hơn cả nỗi tương tư của trai giái thường tình, vua nhớ Phật đến sinh bệnh và có nguy cơ mạng chung. Pho tượng gỗ tạc kim dung Đức Phật đã cứu lấy sinh mạng vua. Với vua, tượng gỗ cũng chính là sắc thân Phật. Và ở bên tượng, vua cảm thấy như đang ở bên Phật, gần gũi với Phật, thỏa được lòng nhớ mong, khát ngưỡng.

Như vậy, luôn được gần Phật hay gần tôn tượng Ngài là niềm hạnh phúc to lớn không chỉ với vua Ưu Điền, mà còn với tất cả chúng ta. Bên Phật như bên cha lành, như bên mẹ hiền, bên suối nguồn thơm mát của từ bi, trí tuệ.

Từ ý thức đó, nhiều người muốn được hàng ngày chiêm ngưỡng Phật nên không đặt tượng Ngài trên bàn thờ, mà đặt ở những nơi mà họ sống nhiều nhất. Một cách rất ngẫu nhiên, trong nhiều ngôi nhà hiện đại, tượng Phật có thể xuất hiện ở bàn làm việc, ở kệ sách, trên chiếc đôn nhỏ, hay trang trọng hơn là ngay lối vào ra. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, những người trong gia đình đều có thể nhìn thấy Phật.

Từ chốn thờ tôn nghiêm, Đức Phật đã bước vào cuộc sống bề bộn, âu lo của con người trần tục. Một Đức Phật để thờ kính, lễ lạy nay đã trở thành một Đức Phật để gần gũi, chan hòa và để sống với… Rất có thể chủ nhà chỉ đơn thuần xem tượng Phật như là một kiểu tượng trang trí, nhưng không thể phủ nhận rằng họ cũng ít nhiều cảm mến được nét đẹp từ bi toát lên từ dung tượng Ngài.

Kiểu “thế tục hóa” tôn tượng Phật như thế cũng là điều tự nhiên. Song vấn đề lại gây tranh cãi khi có người quá yêu kính Đức Phật, đến độ để Ngài sống “quá gần gũi” với mình như câu chuyện sau đây:

Một Phật tử nọ cho một người phương Tây thuê nhà. Một hôm, chủ nhà phát hiện trong phòng vệ sinh của chàng Tây trẻ có một pho tượng Phật. Chủ nhà lấy làm giận dữ vì cái lẽ bất kính ấy đối với vị giáo chủ thiêng liêng của mình. Nhưng chàng Tây trẻ khăng khăng rằng, xét về niềm tôn kính, nếu so với chủ nhà, thì anh ta tôn kính Đức Phật không kém. Bởi lẽ, phòng vệ sinh là nơi anh sống nhiều nhất. Sau một ngày làm việc căng thẳng, anh trở về nhà và ngâm mình vào bồn tắm; trong những phút thư giãn hiếm hoi đó, anh có thể chiêm ngưỡng Đức Phật một cách trọn vẹn, không vướng bận những toan lo của công việc hàng ngày!

4. Sau khi Đức Phật nhập diệt ngót nửa thiên niên kỷ, không thấy ai vì nhớ thương Phật mà tạo hình tượng Ngài. Quan niệm bấy giờ cho rằng không ai có thể tạo nên một pho tượng Phật bao gồm được sắc tướng trang nghiêm với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Chúng đệ tử tôn kính và tưởng nhớ đến Ngài qua những biểu tượng thiêng như: dấu chân, chiếc ngai, cội bồ đề hay bánh xe chuyển pháp luân… Và có lẽ, phải chăng, chúng đệ tử bấy giờ cũng không muốn hình ảnh Đức Phật bị “trần tục hóa” kiểu như “cùng sống với” những người thế tục như trên đã nói?!

Song đến đầu Công nguyên, dưới triều đại Kushan, nhu cầu có một thánh tượng Đức Phật để tôn thờ trở nên tha thiết hơn bao giờ hết. Đó là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của Phật giáo Đại thừa. Nhiều trung tâm nghệ thuật xuất hiện, tiêu biểu nhất là Gandhara và Mathura, đã chế tác nên rất nhiều hình tượng Phật với nhiều kích cỡ và tư thế khác nhau. Đức Phật bấy giờ không chỉ ngự trong điện, trong hang động, mà còn xuất hiện ở những chốn đông người lại qua. Từ biểu tượng thiêng đến dáng vẻ con người, hình ảnh Đức Phật đã trở nên hết sức sống động, gần gũi.

Hai mươi thế kỷ trước đã thế, nên không lạ gì khi trong thời đại ngày nay, chúng ta lại chứng kiến niềm khát ngưỡng muốn kéo Đức Phật đến gần hơn nữa với cuộc sống trần tục của con người. Đức Phật đã ung dung bước ra khỏi gian thờ tự trang nghiêm để xuống vườn, đến cả chốn công viên.

phattrongnhangoaivuon-3-content

Ảnh minh họa

Ấn Độ có rất nhiều công viên Đức Phật, như: Budhha Park ở Kanpur, thuộc bang Uttar Pradesh, một trong những thành phố đẹp nhất của Ấn Độ, tọa lạc bên dòng sông Hằng linh thiêng; đây là nơi vui chơi của trẻ em nhiều thế hệ. Trong khi đó, Gautam Buddha Park ở Lucknow từ lâu đã là điểm đến thú vị cho những cuộc pinic, ngày nay phần nhiều được sử dụng cho những cuộc hội nghị mang tính chính trị. Một dự án khác, công viên Đức Phật ở Patna, dự kiến sẽ hoàn thành vào giữa năm nay, nằm cạnh đại lộ Fraser, nơi sẽ tôn thờ một phần xá lợi của Phật. Đặc biệt, tại phía Nam thủ đô New Delhi có công viên Buddha Jayanti, được xây dựng nhân kỷ niệm lần thứ 2.500 ngày Đức Phật nhập Niết bàn. Nơi đây hàng năm diễn ra pháp hội đông đến hàng ngàn người. Ngày thường, trong công viên này, Đức Phật vẫn ngồi lặng lẽ hiền từ khi chung quanh Ngài có vô số cặp tình nhân đang ôm nhau thắm thiết. (Ở Ấn Độ, hiếm có cảnh trai gái thân mật với nhau giữa chốn đông người). Quả thật:

“Trăng lên

Dưới bóng Đức Phật

Đôi tình nhân hôn”.

(Thơ Nguyễn Thiên Thuận)

Thái Lan nổi tiếng có công viên Buddhamonthon - tỉnh Nakhon Pathom, phía Tây Bangkok, với tượng Phật đứng cao đến 15,8m. Ở Lào có công viên Đức Phật Xieng Khuan, nằm phía Nam thủ đô Vientiane, soi bóng xuống dòng Mekong. Công viên này được gọi là “thành phố tâm linh”, với hơn 200 pho tượng Phật giáo và Hindu giáo, đặc biệt là pho tượng Phật nằm dài đến 40m… Việt Nam có công viên Quách Thị Trang, nay mai còn có công viên Thích Quảng Đức,… nhưng vẫn chưa có công viên Đức Phật!

5. Không còn bất ngờ khi ở đâu đó, ta bắt gặp tôn tượng Đức Phật đang ngồi dưới một gốc cây, trên một bãi cỏ, hay bên một dòng suối. Dù ngồi ở đâu, gương mặt Ngài vẫn an nhiên và nụ cười hiền từ có sức lay động mạnh mẽ. Những đứa trẻ có thể chạy đến chơi với Ngài; người làm vườn cũng có thể đến nghỉ mát, ngồi uống nước bên Ngài. Ngài đã đản sinh dưới gốc cây, thành đạo dưới gốc câynhập diệt cũng dưới gốc cây. Thiên nhiên gần gũi với ngài, cũng giống như ngài đã gần gũi với con người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn…

Hình ảnh Đức Phật giờ đây đã trở nên gần gũi, quen thuộc với con người, phương Đông cũng như phương Tây. Tại chốn phồn hoa đô hội hay nơi thôn quê hẻo lánh, chúng ta đều có thể bất ngờ gặp Phật. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân ngỡ ngàng khi chiêm ngưỡng hình ảnh tôn nghiêm của Đức Phật tại chốn đệ nhất ăn chơi Las Vegas - Hoa Kỳ. Nhà văn Văn Cầm Hải xúc động khi trông thấy Ngài tại ngôi làng cổ Marken - Hà Lan, ngôi làng có lịch sử ngàn năm Thiên Chúa. “Làng Marken nằm ngoài bán đảo ở vùng biển Amsterdam. Như có ai xui khiến, trong khi dạo chơi ngắm cảnh quan, bất chợt bước chân tôi khấp lại trước khe tường hẹp giữa hai ngôi nhà: huyền bí trong kia khu vườn nhỏ, phía sau thân cây bạch dương trụi lá, Đức Phật uy nghi hiện ra. Khuôn mặt Ngài cô nghị trên bụi hoa dại màu nhung tía như máu của đất dịu dàng phun lên. Ai đã mang tượng Phật đến ngôi làng cổ từ ngàn năm nay chỉ có biết Chúa Jesus? (…) Tôi bất thần nhận ra mình chỉ là một hạt phân tử chuyển động, hòa tan và mất hút vào vẻ đẹp vô ngôn của bức tượng Phật. Khuôn mặt từ bi, đôi tay như nhã xuôi theo cánh đùi mà tôi phải nhón chân qua hàng rào mới nhìn thấy, Đức Phật hiển thị giữa gió ngàn khơi hoang vu”, anh kể (5).

Tại tòa cao điện lớn, tại chốn thờ tôn nghiêm, trên một giá sách hay trong một góc vườn, một công viên rộng lớn, trong cảnh rừng núi thâm u hay giữa chốn phồn hoa đô hội, Đức Phật điềm nhiên tĩnh tọa, nào có khác gì. Khác chăng đó là tấm lòng của chúng ta đối với Ngài như thế nào mà thôi!

Đỗ Thiền Đăng

(1) HT. Thích Thanh Từ dịch, kinh Tăng nhất A hàm, Viện Nghiên cứ Phật học Việt Nam, 1998, tr.403-422. (2) Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, Thành hội Phật giáo TP.HCM, 1997, quyển I, tr.126. (3) Trí Quang dịch, Lương Hoàng sám, NXB Tôn giáo, 2006, tr.385&389. (4) Phật học phổ thông, tr.125. (5) Văn Cầm Hải, “Bóng Phật bên biển La Haye”, Trên dấu chân di thê, NXB Trẻ, 2003, tr.37-38.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30361)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30631)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 20984)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20180)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19400)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24361)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30623)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15662)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27756)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19749)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15554)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23202)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23526)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17492)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15663)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21844)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37949)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22076)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23205)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21308)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28391)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32509)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25145)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34648)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22896)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27662)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31268)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13581)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25121)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27770)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22059)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20712)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22199)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27078)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24104)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21869)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14694)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23111)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23976)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21060)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14178)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19910)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22477)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14051)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 27995)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22786)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28164)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10971)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28469)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31535)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26146)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14905)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28012)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7389)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25321)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20685)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21105)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12216)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11888)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12784)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant