Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tà áo Cung Trời Tushita - Truyền Thuyết Về Cuộc Đời Của Đại Luận sư Vô Trước

26 Tháng Chín 201000:00(Xem: 22396)
Tà áo Cung Trời Tushita - Truyền Thuyết Về Cuộc Đời Của Đại Luận sư Vô Trước

Chúng ta biết rằng, trường phái Duy Thức Học (Vijnànavàda) Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ V.TL; và một trong những người được xem là Tổ sư của trường phái này là Ngài Vô Trước (anh em cùng mẹ khác cha với Ngài Thế Thân), cả hai đều là Đại luận sư của trường phái triết học Duy Thức, một trường phái triết học đặc thù của Phật giáo mà tầm vóc và sự ảnh hưởng của nó, về mặt lịch sử, không thua kém gì dòng triết học Trung Quán của Ngài Long Thọ (Nagàrjuna). Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA, nguyên bản tiếng Tây Tạng của CANG SKYA. YESHES BSTAN PAI' I SGRON ME, bản dịch Anh ngữ của JOE WILSON.

Phần I . Kệ văn

Trong Manjushri Root Tantra (Manjushrimlakapa) truyền tụng rằng, Đức Thế Tôn trước khi vào diệt độ, Ngài đã cho biết trước rằng, 900 năm sau, sẽ có một Đại sỹ ra đời xiển dương Luận tạng, tên là Asanga. Bài kệ tiên đoán đó được ghi lại nguyên văn như sau:

"Chín trăm năm sau có một người tăng sỹ,
Vị ấy tên là Asanga,
Ngài sẽ chuyên chú vào giáo nghĩa của luận thư
Và sẽ khéo biện biệt giải thuyết.
Với biện tài vô ngại,
Vị thầy của thế gian,
Sẽ có thiên tư về luận thuyết,
Sự tựu thành của thông tuệ này
Sẽ đến từ sức thần của Mạn đà la-
Một vị nữ sứ giả của Sla;
Thông qua năng lực này mà thiện tâm trồi dậy;
Ngài sẽ tập hợp các giáo nghiã trọng yếu của luận thư.
Thọ mạng của Ngài sẽ kéo dài một trăm năm mươi năm,
{Rồi sau đó} khi thân Ngài tan rã;
Nơi Thiên cung, Ngài lại trở về;
Với niềm phúc lạc vô biên,
Ngài dạo chơi trong vòng hiện hữu.
cuối cùng, Đại sỹ sẽ chứng ngộ tuệ giác vô thượng".

Nguyên tác tiếng Tây Tạng :

Thogs Med Ces Bya'i Dge Slong Ni
Bstan Bcos De Ni Don La Mkhas
Mdo Sde Nges Don Drang Ba'i Don
Rnam Pa Mang * Po Rab Tu 'Byed
'Jig Rten Rig Pa Ston Bdag Nyid
Gzung 'Byed Ngang Tshul Can Du 'Gyur
De Yi Rig Pa Grub Pa Ni
Sa La'i Pho Nya Mo Zhes Brjod
De Yi * Sngags Kyi Mthu Yis Ni
Blo Ni Bzang Po Skye Bar 'Gyur
Bstan Pa Yun Ring * Gnas Bya'i Phyir
Mdo Yi De Nyid Don Sdud Byed
Lo Ni Brgya Dang Lnga Bcur 'Tsho
De Lus Zhig Nas Lha Yul 'Gro
'Khor Ba Rnams Su 'Khor Ba Na
Yun Ring Bde * Ba Rjes Myong Nas
Bdag Nyid Chen Po Mthar Gyis Te
Byang Chub 'Thob Par 'Gyur * Ba Yin
Zhes Gsungs Pa'o*

Bản dịch Tiếng Anh:

[When nine hundred years have passed,]
A monk named Asanga
Will be expert in the meaning of the treatises
And will in many ways discriminate
The sủtras of definitive and interpretable import.
By disposition a teacher of worldly knowledge,
He will have a nature of explaining the texts.
The achievement of the knowledge for that
Will come through the power of the mantra
Of she called Lady Messenger of Sâla;
Through its power good mind will arise.
In order that the teaching might long remain
He will condense the essential meaning of the sutras.
He will live one hundred and fifty years
And, his body disintegrating,
will go to a country of the gods.
Having long experienced bliss
Travelling in cyclic existence,
This great being will finally attain enlightenment.

Phần II. Giai thoại

Truyện kể rằng, sau ba lần nồi dậy của các nhà tư tưởng tiến bộ (abhidharma) thời đó tại Ấn Độ, lúc bấy giờ,có một người đàn bà đức hạnh phi thường thuộc dòng Bà la môn tên là Tịnh Đức (Gsal Ba'I Tshulkhrims). Bà nghĩ rằng, chánh pháp đã đến hồi suy vong do sự lạm thuyết của các học phái; nhưng ta, mang phận đàn bà, làm sao có thể xiển dương "giáo nghĩa thư" để bảo vệ chánh pháp. Suy nghĩ như thế, bà quyết định dùng sinh thức tuệ giác của mình để truyền cho con trai. Sau khi quyết định, bà đã lấy một người đàn ông dòng Kshatriya và hạ sinh Vô Trước. Sau đó, bà lấy một tu sỹ Bà la môn (brahmin) và hạ sinh đứa con thứ hai là Thế Thân. Trong suốt thời gian sinh dưỡng hai người con, bà không ngừng rèn luyện tâm thức chúng theo ý đồ của bà. Khi hai người con trưởng thành, chúng hỏi bà rằng:

- Thưa mẹ, cha của chúng con thuộc hạng người nào, và chúng con phải chọn nghề gì để nối nghiệp cha?

-Bà trả lời : Ta sinh dưỡng các con không phải để nối nghiệp cha, mà để học đạotruyền đạo.

Sau đó, Thế Thân đã đến Kashmir học đạo với Thầy Samghabhadra. Còn VôTrước thì vào tu kín trong động ở núi Chân Chim để tìm Thầy Maitreya học đạo. Suốt ba năm tu luyện trong động, nhưng Vô Trước không hề thấy được một dấu hiệu khả quan nào, và điều đó đã làm cho Ngài chán nản. Suy nghĩ như thế, Ngài vội bỏ hang động ra đi. Khi vừa bước ra, Ngài liền gặp một ông già đang mài thanh sắt lớn làm kim. Ngài hỏi: Ông làm cái gì vậy? Ông lão đáp kệ trả lời:

"Khi một người tu tập, rèn luyện nội tâm,
Thì không có điều gì mà không thành tựu,
Cho dù núi non có trở thành các bụi,
Sức mạnh của tâm thức sẽ vượt qua tất cả".

Nghe xong bài kệ, tâm Ngài trở nên tươi tỉnh, phấn chấn, và Ngài quyết định trở lại hang động để tu tập. Thế rồi, ba năm trôi qua, Ngài cũng không tìm thấy được điều gì, trong lòng buồn phiền, Ngài lại bỏ hang động ra đi. Lúc ấy Ngài chợt thấy ảnh tượng của những giọt nước đang xói mòn vách đá trong hang động, bỗng dưng tâm Ngài bừng tỉnh; rồi Ngài trở lại hang tu tập. Một lần nữa, ba năm lại trôi qua, giờ đây trước mắt Ngài đầy dẫy nỗi ưu phiền, Thầy Maitreya vẫn biền biệt tung tích. Ngài bèn bỏ hang động ra đi. Lúc ấy, Ngài lại thấy ảnh tượng của một vách đá bị xói mòn bởi những cánh chim bay, tâm thức Ngài bỗng dưng định tỉnh, và quyết chí trở lại hang đá tu tập. Thế rồi, ba năm nữa lại trôi qua, buồn phiền và chán nản lại kéo về trong tâm thức, rồi Ngài lại từ giã ra đi. Nhưng lần này, khi vừa bước ra khỏi hang đá, Ngài lại gặp một con chó sói tội nghiệp đang nằm dài, quằn quại. Phần nửa thân sau của nó thì đang lở lói bởi sự gặm nhắm của côn trùng, phần nữa thân trước của nó thì phều phào rên rỉ. Nhìn thấy cảnh đó bỗng nhiên tình thương thống thiết của Ngài trào dâng một cách phi thường; và Ngài bèn tìm cách cứu giúp nó. Lúc đó, Ngài nghĩ rằng, ta nên cắt bớt thịt của mình, rồi dùng nó để dời những côn trùng đang gặm nhắm trên thân con chó sói tội nghiệp này. Ngài liền đi mượn một con dao và tự tay cắt thịt của Ngài. Thịt đã cắt xong, nhưng vì sợ rằng, nếu lấy tay mà bắt những côn trùng thì sẽ làm chúng chết, và làm cho con chó sói càng đau đớn thêm. Đắn đo suy nghĩ một lúc, Ngài quyết định dùng chính cái lưỡi của mình để liếm những côn trùng ra khỏi những chỗ bị lở trên thân con chó sói. Trong lúc Ngài vừa liếm vào vết lở, thì bỗng dưng Bồ Tát Maitreya (Di Lạc) xuất hiện.

-Vô Trước liền hỏi:

"Con đã tu tập qúa lâu trong hang đá để chờ Ngài, nhưng tại sao không hề thấy một dấu hiệu nào của Ngài?"

-Bồ Tát đáp:

"Ta đã ở trong đó từ lúc ban đầu, nhưng do tâm thức của ngươi bị ngăn che bởi các dục vọng, ưu phiền nên ngươi không nhìn thấy ta đó thôi. Nay do ngươi phát khởi một tình thương vô bờ nên mọi chướng ngại trong tâm thức của ngươi đã băng tiêu, vì thế mà ngươi thấy ta".

Bấy giờ Vô Trước cầu xin Bồ Tát truyền pháp tu hành, Bồ Tát bảo Vô Trước hãy nắm lấy tà áo của Ngài, rồi họ cùng bay lên cung trời Tushita (Đâu Suất). Trên cung điện nhà trời, Vô Trước ở lại một buổi sáng để học đạo, lúc trở về trần gian mới hay rằng, mình đã ở trên cung trời 53 năm rồi.2

Trên cung trời Tushita, Bồ Tát Maitreya đã truyền tâm pháp toàn thiện cho Vô Trước và năm phần giáo3, mà sau này Ngài đem về truyền bá ở trần gian.

Phần III. Kệ Tán

Tôi kính lễ Đại sỹ Vô Trước
Người cứu độ trần gian,
Đã tiếp nhận nguồn mạch diệu âm từ dòng thánh thiện
Thúc dậy từ sức mạnh của suối nguồn đại định,
Dòng suối nguồn (giáo nghĩa) thiêng liêng
Tuôn chảy từ miệng của Bồ tát Maitreya tôn quý.

Nguyên bản Tiếng Anh:

I bow down to he, called Asanga who,
in order to help all the world,
Received with the vessel of listening,
the stream of nectar
Drawn by the power of the meditative stabilization
of the Stream of Doctrine- A stream of nectar poured from the vessel [whose] mouth [was] the noble Maitreya.

* * *

1 Thời kỳ Phật giáo Luận thư, xem Tâm Lý Học Phật Giáo, Thích Tâm Thiện, NXB.Tp.HCM, 1998

2 Trong chú thích bản cổ - Luận thư của Asanga ghi chú rằng, "một buổi sáng (hôm đó) trên cung điện nhà trời bằng sáu tháng ở trần gian.

3 Năm phần giáo: nguyên bản tiếng Tây Tạng gồm có: MDO SDE RGYAN.P5521,MNGON RTOGS RGYAN.P5184,DBUS MTHA'RNAM 'BYED.P5522,CHOS DANG CHOS NYID RNAM 'BYED.P5523,RGYUD BLA MA.P5525.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15491)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13180)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
(Xem: 19336)
Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứhiện tại chi phối.
(Xem: 24588)
Làm sao cái Biết nhận thức được tự tính không của đối tượng? Đối tượng mà ta nhận thấy (nhận biết của tâm) thật ra chỉ là thấy hình ảnh không của đối tượng mà thôi.
(Xem: 15724)
Chú Đại bi còn có những tên gọi sau: Thiên thủ thiên nhãn quảng đại viên mãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni, Quảng đại viên mãn đà-la-ni...
(Xem: 37801)
Có thể nói nguyên nhân sâu xathen chốt nhất của sự biến mất truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản hiện tạibản thể giới luật của Tăng không được coi trọng.
(Xem: 13456)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
(Xem: 13075)
Tu hành Duy thứcđạt đến hai vô ngã bằng cách biết ngã và pháp không là gì ngoài sự biến hiện của tâm thức. Nói cách khác, ngã và pháp chỉvọng tưởng không thật.
(Xem: 17155)
Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái gì xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi...
(Xem: 13187)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực...
(Xem: 17368)
Chữ Phật không phải là một danh từ riêng, mà là một danh hiệu. Trong truyền thống Phật giáo, có nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
(Xem: 21608)
Đối với đạo Phật, học thuyết âm dương chỉ là tưởng tri của các học giả, không thể là chân lý. Vậy chân lý của đạo Phật là gì? Có thể gói gọn trong một chữ “Khổ”.
(Xem: 13207)
Ở trong Tứ thánh đế, Diệt thánh đếchân lý cứu cánh, là chân lý tuyệt đối, là chân lý duy nhất, là chân lý tối hậu được chứng nhập bằng Đệ nhất nghĩa trí.
(Xem: 14374)
Phật Giáo, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của kinh nghiệm trực tiếp trong vấn đề nghiên cứu tâm lý học. Nếu chỉ chú trọng duy nhất vào lý thuyết thì sẽ đánh mất đi những điều căn bản.
(Xem: 12794)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
(Xem: 13649)
Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng...
(Xem: 28559)
Tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo...
(Xem: 23365)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34349)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 28846)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
(Xem: 32159)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
(Xem: 11313)
Chỗ ấy chính là Niết Bàn Diệu Tâm Thật Tướng, Vô Tướng, là Như Lai tạng, là Chơn Như, tịch diệt... HT Thích Như Điển
(Xem: 11996)
Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiết...
(Xem: 26255)
‘Sự quyến rũ của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới’ được tuyển dịch từ những bài viết và pháp thoại của nhiều bậc Tôn túc và các học giả Phật Giáo nổi tiếng thế giới...
(Xem: 17349)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
(Xem: 14514)
Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982).
(Xem: 34448)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 13104)
Chuyển ngữ kinh không chỉ sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp, mà còn dễ dàng đưa giáo pháp Đức Phật vào nền văn hóa dân gian qua các dạng khác như chuyện cổ tích, ca dao...
(Xem: 12268)
Tóm lại Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa không phải là hai "học phái" hay "tông phái" khác nhau, mà đúng ra chỉ là hai thái độ hay hai chủ trương tu tập khác nhau, và cùng tiến bước trên một Con Đường chung.
(Xem: 13390)
Sự tái sinh có đúng là một sự tiếp nối liên tục của nhiều kiếp sống sinh học khác nhau hay là trái lại đấy chỉ là các thể dạng tâm thần khác nhau có thể (hay không có thể)...
(Xem: 40495)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 26901)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 14443)
Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý...
(Xem: 13222)
Phật Giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ). Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức Phật thành đạo.
(Xem: 13440)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 12507)
Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
(Xem: 13121)
Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
(Xem: 12293)
Phật giáo nói về sự khác nhau giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng của mỗi cá nhân...
(Xem: 11772)
Đạo Phật đã tồn tại và phát triển 2600 năm kể từ khi Đức Phật giác ngộ lúc 35 tuổi. Giáo lý của Ngài được đặc trên nền tảng Từ biTrí tuệ qua sự chứng nghiệm của Ngài.
(Xem: 12550)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau... Thích Trí Giải
(Xem: 17650)
Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời...
(Xem: 12192)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh. Vậy muốn đạt được Giác Ngộ thì phải loại trừ Vô Minh.
(Xem: 12734)
Từ nhiều thông tin, cách thờ phượng và sự phát triển khác nhau, hiện nay đạo Phật dường như đang dần dần thâm nhập vào nền văn hóa của toàn thế giới.
(Xem: 18423)
An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo phápgiới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 14279)
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp (karma)- giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con ngườithế giới.
(Xem: 12976)
Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng... Nguyên Siêu
(Xem: 11308)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cả những nghiệp duyên từ trong những đời quá khứkiến tạo ra con người trong kiếp này.
(Xem: 12134)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
(Xem: 13446)
Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân biệt được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên thân hữuhuynh đệ hơn.
(Xem: 10826)
Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta.
(Xem: 11066)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng... Hoàng Như Mai
(Xem: 10275)
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh...
(Xem: 28858)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 25234)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 26836)
Giáo lý đạo đức của Đại thừa được đề ra trong học thuyết về các ‘Ba-la-mật’ (pāramitā), khởi đầu là sáu, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ ba-la-mật.
(Xem: 25736)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18644)
Để thực hành lòng từ, trước nhất là bạn nên trực tiếp giúp đỡ họ nhu cầu về thức ăn, chỗ ở, thuốc men v.v… Nhưng điều đó chưa đủ, mà bạn cần phải ngăn chặn nguyên nhân...
(Xem: 22981)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 34504)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 32129)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant