Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tập Tục Sóc Vọng và ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ

26 Tháng Chín 201000:00(Xem: 20594)
Tập Tục Sóc Vọng và ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ

Văn hóa xã hộitín ngưỡng tôn giáo là một hiện tượng khảo sát của văn minh nhân loại. Như chúng ta đã biết, văn hóa Việt Nam nói chung, hay các tập tục - tín ngưỡng - lễ hội nói riêng, trải qua quá trình phát triển lịch sử của dân tộc đã chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa, tôn giáo vốn đã du nhập vào nước ta hòa quyện để trở thành truyền thống dân gian của dân tộc.

Dĩ nhiên, những truyền thống dân gian nguyên thủy của các dân tộc người bản xứ được coi là thủy tổ của dân tộc Việt dần dần được pha trộn với các nền văn hóa khác mà phát triển, thì chủ thể không còn là bản sắc ban đầu của nó. Đó là một hoàn cảnh mang tính đặc thù của người Việt, vốn dĩ thuyết minh cho phần nghiên cứu chuyên đề này là phong tục tập quán mang ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa ở vùng đất Nam bộ.

Một điển hình cho hình thái này là Tập tục Sóc, Vọng, một tập tục gắn liền với đời sống người Á Đông, và đặc biệt là với dân tộc Việt ở miệt đồng bằng Nam bộ, nơi mà mọi sinh hoạt, giao thông, kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng đều ít nhiều phụ thuộc vào các con nước thủy triều trên sông rạch.

I. TẬP TỤC SÓC VỌNG.

a) Nguồn gốc:

- Sóc: là tên gọi ngày bắt đầu của một tháng (1), là trước, mới (2), là bắt đầu, khởi đầu (3).

- Vọng: là ngày rằm (tức ngày 15) tháng âm lịch. Vọng có nghĩa là trông xa (1), là ngày mặt trăng mặt trời đối xứng nhau ở hai cực (2). Người xưa cho rằng vì thế mặt trời mặt trăng nhìn rõ nhau, thấu suốt ánh sáng nhau, soi chiếu vào mọi tâm hồn con người trở nên sáng suốt, trong sạch, đẩy lùi được mọi đen tối vẩn đục cái tâm vốn sáng suốt, trong sạch từ trong bản thể. Chữ Vọng còn có nghĩa trông mong (3), ước mong, người xưa lấy ý nghĩa này kết hợp với ý nghĩa trước để làm ngày cầu nguyện. Người ta tin rằng ở ngày này nhờ sự thông suốt của mặt trời, mặt trăngthần thánh, ông bà, tổ tiên sẽ thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các cõi khác và sự thông cảm tha thứ sẽ được đáp lại.

 b) Ý nghĩa:

Trải qua quá trình lịch sửảnh hưởng của các trào lưu tôn giáo, ngày Sóc, Vọng được nhận thức ở mỗi nơi có khác ít nhiều tùy theo con người, thổ nhưỡng và tín ngưỡng chủ đạo. Nhưng việc cúng lễ ở hai ngày này giống nhau và coi như là một lễ chung cho cả hai ngày không khác. Người xưa coi ngày Sóc, Vọng là ngày tưởng nhớ tổ tiên, cúng bái ông bà, là ngày nghỉ ngơi trong lao động sản xuất và là ngày chay tịnh để sửa mình.

Theo truyền thống của Nho, Lão giáo, ngày Sóc, Vọng là ngày "Thiên địa mở thông", là sự thông thương của tất cả mọi chướng ngại giữa ba cõi (Thiên, Địa, Nhân). Trời sẽ chứng giám cho hành vi của con người, ông bà tổ tiên sẽ về cảm nhận lòng thành của con cháu, và quỉ thần ám chướng sẽ lui khỏi những ngày này không nhiễu hại ai.

Ngày Sóc, Vọng còn có ý nghĩa "Cát tường" tức là ngày lành tốt nhất trong tháng. Và ý này được chấp nhận chung cho cả quan niệm phương Đông ở Nho - Phật - Lão, như ngày Chúa nhật của phương Tây với Thiên Chúa giáo.

Đối với Phật giáo, ngày Sóc, Vọng là ngày "Trưởng tịnh" tức là ngày trong sạch nhất. Ngày này, những tu sĩ ở chùa thường làm lễ Bố-tát tức là kiểm điểm hành vi của mình và tụng giới luật, còn lễ chính thức cho nhân dân và người theo đạo Phật đó là lễ "Sám hối" nên còn được gọi là ngày Sám hối. Ngày này mọi người tụ tập về chùa vào lúc màn đêm vừa buông xuống để cùng các vị Tăng lễ Phật, sám hối cầu nguyện bỏ dữ làm lành sửa đổi thân tâm.

c) Sự du nhập:

Ngày Sóc, Vọng có điểm xuất phát từ khi hình thành nên âm lịch ở nước Trung Hoa Cổ đại. Trải qua bao thời đại, nước Trung Hoa gồm thâu thiên hạ trở thành một đất nước cường thịnh, phát triển mọi mặt về văn hóa, quân đội và Nhà nước phong kiến. Vua quan phong kiến nước Trung Hoa vẫn tiếp tục mộng bá quền, coi mọi dân tộc đất nước lân bang khác là chư hầu, dùng bạo lực xâm lược để trấn áp và bành trướng nền văn hóa của họ để cai trị, đồng hóa.

Chính vì thế văn hóa Trung Quốc đã truyền vào Việt Namnhân dân ta đã hấp thụ âm lịch cùng chấp nhận nó. Ban đầu ảnh hưởng Lão giáo, Khổng giáo gắn rất chặt vào các ngày lễ theo văn hóa Trung Quốc, nhưng về sau nhân dân chỉ chấp nhận sử dụng âm lịch và biến ngày Sóc, Vọng thành ngày cúng ông bà của dân tộc mình, rồi tiếp tục nhận ảnh hưởng Phật giáo vào tập tục đó để đầy dần ảnh hưởng Nho - Lão giáo ra, hình thành nên nét riêng của dân tộc trong ngày Sóc, Vọng.

Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai mà có những hình thái sinh hoạt đặc thù mà người viết đang nghiên cứu cái đặc thù ấy nơi bài này.

 II. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO CHI PHỐI TẬP TỤC NHƯ THẾ NÀO?

a) Ngày Trưởng tịnh:

Như đã dẫn, ngày Sóc, Vọng còn được gọi là ngày Trưởng tịnh, sám hốiăn chay, ba ý nghĩa ấy xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo.

Đúng ra, ngày Trưởng tịnh đã được Phật giáo hóa từ khi Phật giáo Đại thừa truyền vào Trung Hoa ở phương Bắc và truyền vào các nước theo Phật giáo Tiểu thừa ở phương Nam. Và ở Nam bộ, là điểm hội tụ của cả hai hệ phái Phật giáo ấy trong tập tục Sóc, Vọng, vì Phật giáo Tiểu thừa sử dụng lịch Ấn Độ không sử dụng âm lịch Trung hoa, nhưng ngày làm lễ Bố-tát của họ cũng được quy định bằng ngày trăng sáng và ngày không trăng. Vì vậy, ngày Sóc, Vọng ở Nam bộ, nơi vùng đất cũ của người Khơme còn sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo Tiểu thừa, cộng với tín ngưỡng Phật giáo Đại thừa được mang đến từ người Việt lưu cư, đã hòa quyện nhau trở thành ngày của Phật giáo mang đặc điểm khác biệt với Trung bộ và Bắc bộ về Sóc, Vọng.

 c) Ngày Sám hối:

- Đêm mồng một:

Nam bộ không có thói quen gọi là ngày Sóc, Vọng, mà người ta thường gọi một cách quen thuộc là ngày rằm (tức ngày Vọng - 15) và ngày mồng một (tức ngày Sóc - 30,1). Không khí của ngày rằm, mồng một ở đây được coi là những ngày quan trọng hơn mọi ngày trong tháng.

Nhân một chuyến đi khảo sát tại Bình Đại, Bến Tre cho bài khảo cứu này vào một tối 29 (vì là tháng thiếu), mới hơn 6 giờ chiều, trời đã tối không thấy rõ mặt người, đêm cuối tháng quả là một đêm trừ tịch, lại ở vùng quê chưa hề có điện, người viết ngồi từ một quán ở đầu xóm nằm trên con đường cái của làng, đã nhìn thấy một quang cảnh rộn rịp khi tiếng chuông chùa bắt đầu ngân vang trong đêm vắng. Từng nhà, từng nhà người ta đi ra với tay cầm những con cúi (Một loại bó bằng lá dừa khô, đốt lên để cầm đi đường) đưa tới đưa lui để có ánh sáng soi đường, đồng một hướng đổ về ngôi chùa có tiếng chuông ngân.

Thật là một cảnh tượng sống động trong đêm với hằng loạt đốm lửa con cúi đổ về một hướng như lễ hội rước đèn. Nào là đàn ông, đàn bà, các cụ già và một ít các người trẻ, đa số là nữ như tục ngữ có câu: "Đình là của các ông, chùa là của các bà". Họ ăn mặc khá tề chỉnh so với lúc sinh hoạt ban ngày, người nào tay cũng có bó bông, hoặc nhang, trái cây, họ đi với tâm trạng thơ thới nhẹ nhàng, vui vẻ nhưng trang trọng để chuẩn bị dự lễ Sám hối nơi ngôi chùa làng mà tiếng chuông vang đang dần dần thôi thúc.

Người ta không đi chùa hết, những người ở lại nhà và các gia đình không theo Phật giáo nhưng thờ ông bà bày đồ cúng ra bàn Thiên (Loại bàn như cái khay đóng trên một cây cột trước nhà) lên nhang đèn cúng vái trời Phật giữa đêm tối như một chuỗi hoa đèn trông thật có ý nghĩa. Một bà lão ở quán cho người viết biết: "Đó là tục lệ thường xuyên của dân xứ này trong đêm rằm mồng một, ngày thường thì không như vậy, họ chỉ thắp hương nơi bàn Thiên mà thôi, không có sáng sủa như đêm nay.

 - Đêm trăng rằm:

Đặc tính của đêm trăng rằm là con nước đầy. Vì thế, nét sinh hoạt trên quê hương sông nước là một nét đặc trưng của Nam bộ trong sinh hoạt nhân dân, nhất là đối với ngôi chùa ở miệt này.

Một chuyến đi khác tại Nha Mân, Đồng Tháp vào trong đêm trăng tròn, người viết được chứng kiến ánh trăng trải đầy trên mọi con sông rạch, lũ lượt ghe xuồng đổ về ngôi chùa Hội Phước, ngôi chùa lớn của địa phương nằm bên con rạch. Trước bến chùa, đã đầy chật ghe xuồng neo đậu, tiếng chào hỏi, những bó bông vườn hay trái cây, nhang đèn được đem đến dâng cúng lên chùa. Ngày hội trăng Rằm này là nơi gặp gỡ tốt nhất của họ sau nửa tháng lao động. Họ đến chùa dự lễ Sám hối xong, còn ngồi nán lại hiên chùa hàn huyên, lớp trẻ thì dạo chơi ở vườn hay các quán nhỏ, chỉ mở ra vào những ngày này. Sau một khoảng thời gian độ 9 giờ đêm, bến ghe lần lượt tan khi họ ra về. Lúc này trăng đã chếch bóng trên bầu trời, đối với người dân làng đi chùa lễ Phật đêm Rằm, đây là khoảnh khắc sung sướng nhất, không vội vã, với tâm trạng an lành, ung dung chèo xuồng dưới ánh trăng đêm tỏa xuống mặt sông của con nước Rằm đầy ắp, là cả một sự tươi mát thơ mộng và nhẹ nhàng của tâm hồn họ sau khi lễ Phật, mà không dễ gì người ở thành thị có được.

Những hình ảnh và cuộc sống như thế lần lựa theo ngày tháng trôi đi lập lại trên khắp xóm làng Nam bộ, nó in vào tâm trí con người khi lớn lên, dù cho họ có ra đi phương trời nào đi nữa, vì cuộc sinh kế, vẫn không thể phai mờ trong ký ức về quê hương của mình, đậm nét ngôi chùa, đêm Rằm, lễ Phật, vui chơi... Hình tượng nghệ thuật này từng được một thi sĩ thể hiện cảm xúc:

Mỗi tối dân quê đón gió lành,
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh,
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi,
An ủi dân hiền mọi mái tranh...

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào,
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao,
Dân làng tắm gội lên chùa lễ,
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào...

(Trích bà thơ "Nhớ chùa" của Huyền Không, đăng trên tạp chí Phật giáo Việt Nam, xuất bản năm 1956, Đà Lạt.)

c) Ngày ăn chay:

Ăn chay, hay còn gọi là ăn lạt, phát xuất từ quan niệm từ bi của Phật giáo Đại thừa, khuyên tối thiểu mỗi người theo đạo Phật phải tập ăn chay mỗi tháng là hai ngày rằm và mồng một.

Ngày chay là một bộ mặt khác của chợ búa - điểm hội tụ sinh hoạt sôi động nhất cho nhu cầu con người hàng ngày. Những loại thức ăn chay được bày bán, những quán đồ chay được mời chào và phong cách mọi người cũng khác đi khi họ ăn chay. Một điểm nữa là bông trái được bày bán la liệt, có thể nói ngày Sóc, Vọng là một ngày đầy màu sắc với bông hoa rực rỡ, người làm vườn thì chở hoa ra chợ và mỗi người đi chợ đều mang về một bó hoa trong giỏ. Nét nghiêm túc được thể hiện nơi mọi người, việc sát sanh tranh cãi được hầu như gác lại để dành cho cái thiện ở mỗi người thể hiện ra.

 III. CÁC HÌNH THỨC SINH HOẠT NHÂN DÂN

a) Sự khác biệt giữa các ngày Sóc, Vọng trong năm:

Mặc dù năm tháng trôi qua như mặt nước hồ phẳng lặng đều đặn như nhau, thế nhưng ở cùng ngày Sóc, Vọng trong năm cũng có những hình thức sinh hoạt khác biệt nhất định của nó. Trong đó ảnh hưởng Phật giáo hầu như gói gọn tất cả mọi ngày lễ ấy. Có thể lập được biểu đồ để so sánh các ngày lễ lớn của Sóc, Vọng như sau theo ảnh hưởng Phật giáo:

NGÀY SÓC

- 30 - 1 tháng Giêng (Tết âm lịch), Lễ Vía Phật Di-lặc
- 30 tháng Bảy: Lễ Vía Địa Tạng Bồ-tát.

NGÀY VỌNG

- Rằm tháng Giêng: Lễ Cầu phúc, cầu an, hành hương.
- Rằm tháng Hai: Lễ Phật nhập Niết bàn.
- Rằm tháng Tư: Lễ Phật đản.
- Rằm tháng Bảy: Lễ Vu-lan, báo hiếu, xá tội vong nhân.
- Rằm tháng Mười: Lễ Cúng rằm.

Trong đó:

- 12 ngày Sóc
- 2 Đại lễ.
- 10 lễ bình thường.
- 12 ngày Vọng
- 5 Đại lễ.
- 7 Lễ bình thường.

b) Những quan niệm khác nhau về ngày Sóc, Vọng:

Cái gì đã đi vào truyền thống dân gian thì đều mang trong tự bản thântính chất hòa nhập xã hộiphản ảnh xã hội của địa phương chấp nhận nó. Bên cạnh đó, là quan niệm của các tầng lớp nhân dân trong mối quan hệ tập tục này về hình thức sinh hoạttâm lý. Đi sâu vào khảo sát, ta thấy các quan niệm của họ về ngày Sóc, Vọng như sau:

1. Đối với người tín ngưỡng dân gian:

Tín ngưỡng dân gian ở đây thể hiện ở đình và miếu. Một bộ phận nhân dân trong ngày Sóc, Vọng sẽ đến đình hay miếu của làng mình để đốt nhang, chưng dọn quả phẩm cúng Sóc, Vọng. Thực ra ngày Sóc, Vọng chỉ là ngày lễ bình thường mở cửa cho mọi người đến viếng và lễ như thường lệ mà thôi, chứ không phải là có lễ gì đặc thù trong những ngày này. Bởi đó là ngày nghỉ ngơi của nhân dân với quan niệm hướng về đạo lý truyền thống.

+ Đình là biểu tượng của làng, quan niệm về ngày Sóc, Vọng mang ảnh hưởng Nho giáo, mặc dù các Thần làng được thờ là các vị công thần thời phong kiến Việt Nam có công ở làng hoặc là anh hùng dân tộc. Sinh hoạt chủ yếu là tế lễ định kỳ với Lễ Sinh dâng cúng, và họp mặt hội đình để bàn việc làng nước, trùng tu, tương tế v.v... Đối tượng chính của đình là các bô lão chức sắc của làng và nam giới, họ đến đình để được phân công các công việc và thực hiện như một bổn phận đối với nghĩa vụ công cộng của địa phương mình.

+ Miếu, hay còn gọi là miễu, là nơi tín ngưỡng dân gian thờ Bà, gồm các vị thánh dân gian như: Năm Bà Ngũ Hành, Bà Thiên Hậu, Bà Chúa Xứ, Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu), Bà Mẹ Sanh, Mẹ Độ, Thánh Anh, Kim Huệ v.v... Và đặc biệt là bất cứ miếu nào cũng đều có thờ Quan Thế Âm Bồ-tát, mà dân gian gọi là Phật Bà. Ngày Sóc vọng ở miếu có phần rộn rã hơn đình, qui tụ một bộn phận nam phụ lão ấuđa sốphụ nữ. Sinh hoạt của họ trong những ngày này là cúng rằmlễ cầu an, tụng kinh Phổ Môn, kinh của Phật giáo. Sau đó là họp hội miếu bàn việc tương tế phước thiện giúp đỡ những hoàn cảnh tang tế khó khăn của người trong Hội.

2. Đối với người theo đạo Phật:

Phật giáo đối với nhân dân Nam bộ có mối gắn bó lâu đời trên mảnh đất này, hóa quyện với đạo Phật của người Khơme vốn có tự lâu đời. Tuy nhiên người Khơme sử dụng lịch Ấn Độ trong sinh hoạt, so với ngày Sóc, Vọng của người Việt với ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa, về hình thức sinh hoạt có khác nhau nhưng quan niệm như nhau.

3. Đối với người không theo tín ngưỡng:

Ngày Sóc, Vọng đối với họ như là ngày nghỉ ngơi trong lao động, nhưng có khác là họ vẫn coi như hai ngày truyền thống đạo lý, ngày lành nhất để sắm sửa cúng kiến ông bà tổ tiên. Quan niệm của họ là ngày cúng ông bà, là bổn phận chữ hiếu đối với người quá cốgiáo dục con cái theo truyền thống đạo lý đặc thù của dân Nam bộ: Hiếu và Nghĩa. Mọi hành động bất thiện, những nghề nghiệp thấp kém đều hạn chế hoạt động trong ngày Sóc, Vọng, như là nghề: mổ heo, bán rượu, cờ bạc v.v...

 IV. GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG ĐẠO LÝ DÂN TỘC:

a) Nói truyền thống, tức là nói đến mặt lịch sử của tập tục. Trải qua bao đời, ngày Sóc, Vọng đã trở thành tập tục của người Việt Nam trong bối cảnh cụ thể đất nước - và riêng ở Nam bộ. Đặc biệt là gắn vào sự phát triển kinh tế nông nghiệp lúa nước - một nền nông nghiệp tùy thuộc vào con nước tự nhiên được tính toán bằng âm lịch một cách chính xác theo điều kiện sinh thái của miền Nam. Từ đó, văn hóa được dựa vào bối cảnh nông nghiệp ấy mà phát triển phù hợp với đất nước con người, được qui định bởi xã hội ấy.

Một ví dụ để chứng minh: Trong ngày Sóc, Vọng, là ngày con nước đầy ở mức cao nhất không có ròng sát, thì công việc đồng áng hầu như phải gác lại toàn bộ, không có thể cày cấy gieo trồng, chỉ có thể ngh ngơi bơi xuồng đi lại thăm hỏi nhau hay dự hội hè đình đám vui chơi, hoặc dự lễ nơi chùa chiền yên tĩnh...

b) Nói về đạo đức, tức là nói đến tính xã hội của tập tục. Đối với xã hội Nam bộ, ngày Sóc, Vọng là dấu ấn đậm nhất trong mọi sinh hoạt của họ, một ngày lành tốt để làm việc thiện, để răn mình đừng làm điều xấu trong công việc, hành vi ngôn ngữtư tưởng. Ở thành phố, chúng tathể không thấy được ảnh hưởng tư tưởng của những ngày này, vì xã hội công nghiệp chú trọng đến dương lịch, Chúa nhật và ngày nghỉ lễ là ngày vui chơi. Nhưng ở xã hội nông nghiệp thì ngày âm lịch chi phối tất cả, và ngày nghỉ là ngày Sóc, Vọng với một ý nghĩa đạo đức thanh thản tâm hồn chứ không phải vui chơi.

Đối với người dân Nam bộ ở miền quê, thì ngày Sóc, Vọng luôn ở trong tâm khảm họ suốt những ngày ấy. Khảo cứu qua tâm lý các tầng lớp ta thấy:

+ Đối với người già, đây là ngày nhắc nhở con cháu cúng ông bà, làm lành lánh dữ, và họ đi đến chùa chiền đình miếu để gặp gỡ nhau như hình thức câu lạc bộ bây giờ.

+ Đối với người trung niên, lao động chính của gia đình, đây là ngày nghỉ ngơi sau mọi vất vả lao động, để sống với gia đình, hoặc chè chén bàn luận nhân tình thế sự, kinh nghiệm lao động.

+ Đối với tầng lớp thanh thiếu niên, đây là ngày được phép đến chùa để "công quả", một hình thức của việc từ thiện xã hội, học tập đạo đức làm người và được gặp gỡ trao đổi tình cảm vui chơi với nhau.

+ Đối với trẻ con, các em coi đây là những ngày thiêng liêng, có thể nhận được sự tha thứ mọi lỗi lầm của mình nơi người lớn đến đình chùa, và được hưởng những phần bánh trái sau khi cúng bái.

Đời này tiếp nối đời khác sống trong tinh thần đạo đức như thế, tính xã hội được định hình qua ngày Sóc vọng ăn vào nếp nghĩ của con người từ khi tấm bé cho đến trưởng thành tựa như một bức tranh đậm nét thực và ảo khắc vào tâm trí họ hình ảnh quê hương thân yêu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 136)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 192)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 282)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 243)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 282)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 260)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 292)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 372)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 604)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 461)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 479)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 572)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 830)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 853)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 709)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 712)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 937)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 611)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 707)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 823)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 708)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 822)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 824)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 885)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1658)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1277)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1553)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2031)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1094)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 946)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1063)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1094)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1532)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant