Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò

05 Tháng Tư 201200:00(Xem: 14161)
Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò

Mối Liên Hệ Giữa Thầy và Trò
Thích Phước Đạt


thayvatroKhông phải ngẫu nhiên giáo lý Phật giáođạo lý dân tộc ta đều xác lập mối liên hệ thầy trò thật khắng khít, không thể tách rời trong sự hình thành nhân cách con người. Mỗi cá thể con người hiện hữu ở đời đều do cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng, nhưng sự trưởng thành, lớn khôn, cất bước chân hội nhập với đời đều nhờ công ơn giáo dưỡng của thầy cô. Thế nên, bổn phận của người học trò luôn ý thức tôn kính thờ thầy mà giới luật nhà Phật đề cao cái gọi là “Sự Sư đệ nhị”, còn đạo lý dân tộc thường dạy “Tôn Sư trọng đạo” mà xưa nay người dân Việt Nam thực hiện. Để thiết lập mối quan hệ hai chiều giữa thầy và trò ngày càng bền chặt, thăng hoa trong sự phát triển các mối quan hệ tình người trong cuộc sống, Đức Phật đã giảng dạy mối quan hệ này qua bài kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Trường bộ kinh IV).

Về quan hệ giữa thầy và trò

Bản kinh nói trên đề cập 5 điểm chính mà người thầy phải có trách nhiệm và bổn phận truyền trao cho người học trò:

1- Rèn luyện cho học trò theo những đức tính mà mình có.

2- Dạy cho học trò giữ gìn và nhớ kỹ điều cần thiết.

3- Dạy cho học trò nắm vững nghề nghiệp đến mức thuần thục.

4- Khen học trò đối với bạn bè quen biết.

5- Đảm bảo nghề nghiệp cho học trò trên mọi mặt.

Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh đối với mọi người. Do đó, người thầy trở thành bậc mô phạm giữa đời, là tấm gương phản ánh để người học dõi theo thực tập. Hay nói một cách cụ thể, vị thầy là người thực thi đời sống hướng nội “tri hành hợp nhất”. Cái biết của thầy là cái biết đúng sự thật chân lý, trên hết là thể nhập một đời sống tâm linh hướng nguyện vào các đối tượng mà mình giảng dạy.

Tại đây, người thầy không chỉ có nhiệm vụ trao truyền kiến thức đến người học trò mà còn hướng họ thể hiện đời sống thực nghiệm qua thân hành, khẩu hành, ý hành. Mục đích đầu tiên mà người thầy hướng đến là hoàn thiện nhân cách tốt đẹp cho người học, từ đó họ mới sẵn sàng tiếp nhận các kiến thức mà người thầy truyền trao. Đây chính là bước đi đầu tiên mà người học trò cần rèn luyện để trưởng thành với những đức tính tốt đẹp mà người thầy thể hiện trong quá trình giảng dạy. Về mặt này, Đức Phật là vị thầy mô phạm ở đời, có tác động lớn đối với bao thế hệ đi qua.

Cho nên, trong quá trình giáo hóa chúng sinh, Đức Phật là người hết lòng dạy cho các học trò của mình những điều cần nhớ kỹ để thực nghiệm, để thăng tiến đạo hạnh. Những điều cần nhớ, cần giữ gìn chính là con đường thực thi nếp sống có giới như kiện toàn về đạo đức, an trú trong định như là sự ổn định tâm thức, không bị dao động bởi sự biến động của đời sống thực tiễn, từ đó thăng tiến về trí tuệ, có đóng góp thiết thực cho đời.

Đây chính là trách nhiệm lớn lao mà người thầy phải truyền trao cho người học. Suy cho cùng, người thầy là người giới thiệu người học cất bước chân thể nhập vào đời. Do đó, người thầy phải nhiệt tâm trao truyền kiến thức chuyên môn để người học thiện xảo trong nghề nghiệp, tháo vát trong hành xử, tạo ra các sản phẩm tốt mang tính hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất con người mong muốn. Sau đó là sự góp phần đem lại hiệu năng của một đời sống hạnh phúc, an lạc cho từng cá thể

Sự thành công của người học trò sẽ là niềm khích lệ, động viên cho chính họ thăng tiến và đi xa hơn nữa. Trong trường hợp đó, người thầy phải khéo léo khích lệ người học trò trước mọi người, trước các hội chúng, và bạn bè thân hữu. Điểm này nếu được vị thầy tán dương đúng lúc, đúng thời sẽ tạo ra hiệu quả lớn trong việc giáo dụcđào tạo. Nguyên lý giáo dục khích lệ này không chỉ được Đức Phật thực thi mà các nhà giáo dục hiện đại cũng áp dụng và đưa đến những thành tựu giáo dục như chúng ta đã biết.

Không dừng tại đó, người thầy còn có nhiệm vụ hướng cho người học sau khi thành thạo chuyên môn, phải có ý thức thăng tiến nghề nghiệp để có vị trí xứng đáng trong xã hội. Tại đây, người học trò trở thành chuyên gia trong lĩnh vực nào đó mà bản thân họ được đào tạo. Tính chuyên môn cao sẽ tạo ra tính bền vững trong nghề nghiệp. Từ đây, nó sẽ tác động đến mọi mặt đời sống của xã hội trong sự phát triển chung của từng cá thể và cả cộng đồng.

Với 5 điểm chính mà người thầy thể hiện trong mối quan hệ giữa thầy và trò như thế sẽ dẫn đến người học trò có 5 bổn phận, trách nhiệm cần phải thực thi với người thầy của mình mà ta sẽ đề cập dưới đây.

Về quan hệ giữa trò đối với thầy

Bản kinh trên cũng đề cập đến 5 điểm chính như sau:

1- Chào thầy khi thầy đến.

2- Hầu hạ, săn sóc thầy.

3- Hăng hái học tập thầy.

4- Tự mình giúp đỡ thầy.

5- Tự trau dồi nghề nghiệp mà thầy trao truyền cho mình.

Thực chất, 5 điểm này là nói đến tinh thần “Sự Sư đệ nhị”, hay “Tôn Sư trọng đạo” của người học đối với vị thầy mà thôi. Sự thể hiện chào thầy khi thầy xuất hiện chính là hình ảnh người học trò biết tôn kính người thầy mọi lúc mọi nơi. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” khiến người học lúc nào cũng khắc sâu vào tâm trí của mình để tri ânbáo ân. Khi người học biết tôn kính người thầy thì người đó mới sẵn sàng đón nhận các kiến thức người thầy truyền trao một cách nhiệt tâm trong ý thức cầu học. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nguyên lý giảng dạy, giáo dục luôn đòi hỏi mối quan hệ này phải được thể hiện hai chiều. Thầy phải tạo dấu ấn lớn trong tâm thức người học trò trên mọi phương diện và ngược lại người trò phải hết sức tôn kính người thầy thì hiệu năng giáo dục mới có hiệu quả cao.

Từ đây, việc săn sóc thầy không còn được xem là bổn phận mà được thể hiện qua cái tình người học trò dành cho người thầy. Việc hầu hạ, săn sóc thầy trở thành một công việc tự nguyện, chẳng có gì để nói. Sự thân cận, hết lòng hầu hạ thầy không chỉ giúp người đó học được kiến thức mà còn học được cách tiếp nhận từ một đời sống thực nghiệm mà người thầy đã thể hiện trong đời sống thường nhật.

Rõ ràng, có rất nhiều điều người học trò phải biết lắng nghe, dõi mắt nhìn vào tấm gương mà người thầy dày công tạo dựng. Một người học trò khôn ngoan và trung thành, hiếu kính với người thầy không chỉ sẵn lòng đón nhận các kiến thức trên bục giảng mà phải học và hành những gì thầy đã giảng dạy ở mọi lúc mọi nơi. Sự nhiệt tâm, tinh cần của người học trò trong việc học tập sẽ tạo ra nguồn cảm hứng sáng tạo cho người thầy truyền đạt những kiến thức mới không biết mệt mỏi. Nhờ vậy, người học trò có khả năng thăng tiến trên mọi lĩnh vực.

Có thể nói, đây chính là điều kiện để người học trò tự trau dồi kiến thức mà người thầy đã giảng dạy. Nghề dạy nghề là sự thật xưa nay khi mà mỗi người hội nhập vào đời qua khả năng chuyên môn cũng như sự thích ứng với môi trường làm việc, cộng với sự tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trong nghề nghiệp sẽ tạo bước nhảy vọt trong sự nghiệp mà mình đeo đuổi trọn đời. Đây là sự đền ơn đáp nghĩa cao nhất mà người thầy trông đợi ở người học trò.

Tóm lại, trong các mối quan hệ giữa người với người thì mối quan hệ giữa thầy và trò, trò đối với thầy là mối quan hệ tạo khả năng thiết lập rộng rãi các mối quan hệ khác. Có thể nói, từ mối quan hệ này mà thiết lập các mối quan hệ khác đa phương, đa chiều trong xã hội. Điều đó có nghĩa là khi mối quan hệ này được thiết lậpxây dựng trên nền tảng giáo dục tự thân và giáo dục cộng đồng với mục tiêu giải thoát khổ đau, thì chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống hạnh phúcthành tựu Niết-bàn an lạc ngay trong cõi đời này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7348)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4517)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4563)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7328)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2961)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12218)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3990)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3806)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4218)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3685)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5062)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6681)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4003)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4122)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5336)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3785)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4525)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3551)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3926)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4388)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5392)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3840)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3939)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3870)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4824)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4523)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4253)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3827)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4633)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4194)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6107)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4606)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4944)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4189)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4822)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5668)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3649)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4032)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4590)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5284)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3145)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4553)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4288)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4737)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4489)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4606)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7215)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5210)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5004)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4594)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5269)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4159)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6007)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4715)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4874)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5482)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5615)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5818)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant