Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật Có Thể Đem Lại Những Gì Cho Giáo Dục Ngày Nay?

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11839)
Đạo Phật Có Thể Đem Lại Những Gì Cho Giáo Dục Ngày Nay?

Đạo Phật Có Thể Đem Lại Những Gì Cho Giáo Dục Ngày Nay?

Bs Bùi Mộng Hùng

Giáo dục căn bảntruyền đạt. Thế hệ này truyền lại cho thế hệ khác kinh nghiệm sống của một cộng đồng. Những lý thuyết, những thực hành, những thủ thuật trong các nghề nghiệp để sinh nhai kiếm sống, đó là một phần rất thực tiễn, không thể thiếu của giáo dục. Nhưng chỉ là một phần mà thôi. Vì sống chính là quan hệ mình với mình, mình với người, mình với vạn vật với thiên nhiên. Chỉ một trong những quan hệ ấy không được hài hòa là cuộc sống mất an lành. Mình mà không yên được với chính mình thì có trốn tránh cách nào, bằng say sưa, bằng trác táng hay bằng hành động; có trốn đi đâu, vào rừng sâu, ra hải ngoại, thì ngày đêm vẫn không khỏi mặt đối mặt với chính mình. Kinh nghiệm sống làm sao cho yên vui, cũng thiết yếu chẳng kém gì cơm ăn, áo mặc. Cái đó cũng là giáo dục truyền lại. Mà kinh nghiệm này, nhà Phật có trên hai ngàn năm bề dày.
Bài này không có tham vọng trình bày hệ thống giáo dục theo nhà Phật. Mà chỉ nêu lên vài nét lớn có thể bổ ích cho chúng ta ngày hôm nay. Nói vậy có nghĩa là chỉ bàn đến những nét khác với cái giáo dục mà bạn, mà tôi, mà con em chúng ta được tiếp thu.

I. QUAN HỆ NGƯỜI VỚI NGƯỜI: CHỮ HÒA

Cạnh tranh là một nguyên tắc trong xã hội, ở khắp nơi ngày nay; trẻ con ngay từ thuở thơ ngây đã tập tành tranh đua. Tranh đua, giành dựt, lấn áp để qua mặt người. Khôn khéo ra, thì bàn tay có thể bọc nhung, nhưng mà bên trong thường là bàn tay sắt.

Nhà Phật khác thế, lấy chữ Hòa làm nguyên tắc sống chung. Nói hòa, là trước hết hàm ý khác biệt. Đường không phải là nước thì mới hòa với nước. Giống y như nhau thì gọi là “đồng’, rót nước lã vào nước lã thì đã chẳng dùng tới chữ hòa. Ý này ta thấy rất rõ trong câu “Hòa nhi bất đồng, đồng nhi bất hòa”, hòa mà không giống nhau, giống mà không hòa với nhau. Như vậy, nói hòa cũng là nói chấp nhận sự khác biệt của nhau. Chính vì tính cách khác biệt của các thành phần cho nên hòa hợp lại có thể nảy sinh những đặc tính khác lạ, mà đơn thuần cộng đặc tính riêng của các đơn vị thành phần lại không sao có được. Hòa cácbon với sắc thì ra thép, độ bền chắc, độ sắc bén khác hẳn với cácbon với sắt tinh chất. Cái quí của hòa cũng chính là ở chỗ đó. Chẳng những nhân khả năng lên mà còn tạo nên những khả năng mới, nên sức mạnh mới, hệ quả của sự tổng hợp thành công.

Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống, những điều này vẫn giữ nguyên giá trị:

Một là cùng ở một nơi, thân hòa đồng trú. Mới xem qua dường như là một ghi nhận thường tình. Nhưng chính vì không lưu tâm đến điểm thường tình này mà các khu chung cư chuồng thỏ chỉ để về ngủ ban tối, ban ngày phải bôn ba đi kiếm sống ở những đâu đâu đã đưa vào thế bế tắc khó xử cho nhiều ngoại ô các tỉnh lớn khắp nơi trên thế giơi, như Paris, Lyon ở Pháp ngày nay. Không nơi cùng nhau chia sẻ sinh hoạt thường ngày, làm lụng, ăn học, mua bán nhậu nhẹt, tán gẫu, thể thao, giải trí, vân vânvân vân, thì dù là đường phố dinh ốc có quy hoạch đẹp đẽ như Brasilia trước đây, người nào có điều kiện đi nơi khác cũng đều bỏ ra đi. Vì mãi mãi đó chỉ là những dãy nhà không hồn, không sao biến thành khu phố, thành thị xã, sinh động như những khu xóm cổ truyền bình thường. Đã gọi là sống chung thì phải có nơi có chốn thích nghi cho sự chung sống.

Hai là không cãi cọ nhau, khẩu hòa vô tranh. Không cãi để mà cãi, nhưng cũng chẳng phải là cái tinh thần “ba phải”. Chẳng phải là cái hòa cả làng của “dĩ hòa vi quí”, sao cũng được, cũng cam chịu, chỉ có việc ngậm miệng cúi đầu, chẳng phải cái thái độ mà bề trên kẻ cả nhồi vào não cho đám thấp cổ bé miệng trong làng trong nước.

Vì ba là đã khác nhau thì cách nhìn – “kiến” – không giống nhau được. Không cách nào khác là bàn bạc thảo luận – trong tinh thần hòa nhã – nhưng phải đến nơi đến chốn mới cùng nhau “giải”, nghĩa là vượt mâu thuẫn, đi tới một cái nhìn tổng hợp sự việc, đầy đủ hơn, phong phú hơn cái nhìn riêng của mỗi người. Ấy là nguyên tắc kiến hòa đồng giải.

Bốn là có lợi thì phải chi đều với nhau, lợi hòa đồng quân. Đối với các nhà tu hành nguyên tắc này đã là cần luôn luôn nhắc nhở, thì đối với người sống trong thế tục lại càng thiết yếu biết chừng nào.

Năm là cần có luật lệ, có những qui định cho các quan hệ, được mọi người đồng thuận theo và ai ai cũng phải tuân thủ. Đối với người tu hành thì đó là giới luật chung cho Tăng già, câu chữ gọi là giới hòa đồng tu.

Sáu là luôn luôn ý thức vui vẻ với nhau, ý hòa đồng duyệt.

Chữ hòa nhà Phật với nội dung cụ thể của nó: chấp nhận khác biệt, bàn bạc thảo luận bình đẳng rốt ráo, công bằng phân chia quyền lợi, luật pháp công minh ai ai cũng phải tuân thủ, chữ Hòa ấy đáng được đề nghị làm giá trị cho xã hội chúng ta ngày nay.

II. QUAN HỆ MÌNH VỚI MÌNH

Xin bàn riêng về hai điểm độc đáo của nhà Phật; quan niệm về thân xác và về trí tuệ.

1. Với Thân Xác

Hơn bao giờ, ngày nay thân xác được trau chuốt. Thể thao được tôn vinh, cùng với các nhà vô địch mà truyền hình, mà quảng cáo nâng lên hàng thần tượng cho quần chúng. Lịch sử thể thao là hàng chuỗi kỷ lục với những bảng phong thần tên tuổi đi vào truyền thuyết. Ký ức chúng ta ghi nhớ những thân hình đẹp chẳng khác thiên thần trong những động tác tuyệt diệu, như thách thức như siêu thăng các qui luật thiên nhiên gò trói thân xác mỗi người chúng ta. Nhưng khi qua rồi các khoảnh khắc tuyệt vời và huy hoàng của thành tích, im đi cái hào nhoáng ồn ào của thông tin đại chúng, những thiên thần trong giây lát ấy về lâu về dài thành ra những con người như thế nào?

Ngay trong thế vận hội Atlanta 1996 vừa rồi ta được thấy tận mắt hình hài của Mohamed Ali Cassius. Trong đầu nhiều người chúng ta còn nhớ như in một vô địch thế vận quyền Anh hạng nặng Cassius Clay dũng mãnh như bò tót, nhanh nhẹn như hổ báo, cú đánh sấm sét thôi sơn, di động uyển chuyển như bay trên võ đài tưởng rằng địch thủ không sao đánh trúng. Vị thiên thần Cassius Clay mới ngày nào ấy, hôm nay trên đài truyền hình là một Mohammed Ali già trước tuổi, thể xác đờ đẫn, hai bàn tay lẩy bẩy bệnh liệt rung Parkinson, hệ quả của những trận đấu những năm hào hùng.

Cái câu hỏi sau đỉnh cao của thành tích, những nhà vô địch, những nhà thể thao cừ khôi của các nước sống như thế nào, thể xác, tâm thần ra sao, chẳng bao giờ được thấy thông tin đại chúng đề câp một cách nghiêm túc. Một trong nhiều sự kiện tỏ cho ta thấy rằng sự phát triển hài hòa của thân thểtâm thần, ít nhất là óc phê phán và trí xét đoán, chẳng phải là vấn đề quan tâm của quan niệm về thể dục thể thao hiện hành ngày nay. Mà cho có thật tình lưu tâm thì cũng chẳng biết phải làm thế nào. Vì thể xác là một đàng, tâm thần là đàng khác, mõi mắt trông tìm chẳng thấy đâu là nhịp cầu bắc ngang, một quan niệm mà thật ra thể thao chỉ rập theo triết học Tây phương. Nhưng là quan niệm chính thức hiện hành về thể dục và thể thao trên khắp toàn cầu.

Nhà Phật thì khác. Thể xác và tâm thần là một, trong lý thuyết, phương pháp, kỹ thuật giáo dục con người. Với những phương pháp giản dị của nhà Phật bất cứ ai ai trong chúng ta cũng có thể cảm nhận trong thân xác ảnh hưởng của tình cảm, của tư tưởng xuất hiện và biến đi trong tâm thần. Và từ thân xác tác động ngược lại vào tình cảm vào tư tưởng. Tác động vòng tròn qua lại này là cơ sở cho một chương trình huấn luyện toàn diện thể xác, tình cảm tâm trí con người. Xin không bàn vào chi tiết của phương pháp cùng cơ chế sinh học của nó đã được đề cập trong bài Thân xác trong đạo Phật (Diễn đàn số 50,1.3.96; Hương Sen số 61, 2.6.96). Chỉ nói rằng với phương pháp nhà Phật, ai ai trong chúng ta, không cần một dụng cụ nào, chỉ mình với thân mình, bất cứ nơi nào, trong rừng sâu hay giữa đám đông thành thị, bất cứ lúc nào trong ngày, ở vào lứa tuổi nào, ai ai cũng có đầy đủ khả năng luyện cho thể xác tâm thần tráng kiện, minh mẫn, thanh thản.

2. Trí Tuệ

Trong một thời gian dài xã hội cổ truyền Việt Nam trọng cái học từ chương. Cái gì đã in trong kinh sách thánh hiền thì là chân lý, không luận bàn, bài bác, đặc lại vấn đề. Thui chột mất đi cái khả năng suy luận. Chúng ta đã bỏ cái lối giáo dục ấy. Dù rằng đâu đó đôi khi vẫn còn rơi rớt cái xu hướng tôn sùng lý lẽ của uy tín, nhưng chúng ta đã bỏ lối học từ chương, ít nhất là trên nguyên tắc.

Và cũng đã từ nhiều thế hệ chúng ta học theo lối học của phương Tây. Phát huy suy luận, phát triển lý tính. Đó là một điều hay, nhất là cho chúng ta. Trọng lý trí là phải, điều đáng nói là cái giáo dục chúng ta học được theo khuôn mẫu Tây phương duy lý trí đến mức độ cực đoan, xem như sự thật chỉ có thể là kết quả cuối cùng của một quá trình tư duy. Quên rằng chỉ lạnh lùng lý trí là sẽ mù lòa trước những sự kiện, nhất là trong quan hệ người với người, mà chỉ con mắt của tấm lòng mới thấu đáo được. Quên rằng ngoài lý trí, con người còn tiếp xúc sự vật, tiếp xúc đồng loại bằng tình cảm, bằng trực giác. Chương trình giáo dục hiện hành chỉ chuyên trau dồi lý luận, không chút ngó ngàng đến trực giác. Chẳng mấy ai mà cái hồn nhiên trực giác chẳng bị quên lãng, sứt mẻ đến thui chột sau những năm dài học theo các chương trình giáo dục ngày nay. Nhưng thử hỏi có sáng tạo nào mà không có phần của trực giác chăng. Dù là trong nghệ thuật hay trong khoa học. Hãy nghe nữ triết gia Hannah Arendt tâm tình với cô bạn Mary MacCarthy: “Theo ý tôi, ảo tưởng lớn chính là chỗ nghĩ rằng Chân lý là kết quả cuối cùng của một quá trình tư duy. Trái lại, Chân lý luôn luôn là khởi thủy của Tư tưởng. Hành động tư duy bắt đầu sau khi một nghiệm sinh chân lý loé sáng”.*

Nhận định phản ảnh kinh nghiệm sống chân tình của nhà nữ triết gia xuất sắc. Và chúng ta tiếc cho giáo dục hiện hành không lưu tâm đến quan hệ trực giáclý luận trong tiến trình đi tìm sự thật. Hầu như hoàn toàn bỏ qua một trong những phương tiện tri giác của sinh vật trong con người.

Nhà Phật trân trọng phân biệt lý luận. Đọc Long Thọ bồ tác đủ thấy lý luận tinh tế tới mức nào. Tuy nhiên cái tri thức thấu đáo đến gốc rễ vấn đề, nhà Phật gọi là Tuệ chẳng phải là đơn thuần do lý luận. Theo Trường bộ kinh “Tuệ nảy sinh do suy luận, do những gì nghe được, do trau dồi tâm thần” (D III 219). Vậy yếu tố thứ nhất của tuệ là trí năng phân biệt, lý luận. Yếu tố thứ nhì là tri thức do học hỏi. Nhưng chẳng phải là cái học kinh sách thuộc lòng chất đầy bụng: “có những kẻ ngu xuẩn đi học thuộc lòng giáo lý…; họ chẳng tìm hiểu giáo lý bằng trí tuệ, và vì vậy chẳng bao giờ thấu hiểu giáo lý” (Trung bộ kinh, M I 133). Yếu tố thứ ba của tuệ là “trau dồi tâm thần” tạm dịch từ “bhavana” dùng cho các trường hợp tu luyện thiền quán. Đó là phần trực giác được phát huy bởi các phương pháp ấy.

Tuệ, các trí thức nhạy bén, thấu đáo quan hệ, quy luật che lấp sau hiện tượng của sự vật và kết tinh hài hòa của học hỏi, suy luậntrực giác. Và những phương pháp, kỹ thuật nuôi dưỡng, phát triển trực giác của nhà Phật là kinh nghiệm quí báu trong kho tàng văn hóa chung của loài người.

Tóm lại, với tiềm năng đem lại quan niệm, lý thuyết, phương pháp và kỹ thuật trong hai vấn đề: 1) phát triển hài hòa thể xác và tâm thần; 2) hài hòa lý trí với trực giác, chỉ riêng bấy nhiêu cũng đủ là những đóng góp đáng quý của nhà Phật cho giáo dục ngày nay.

III. LÀM GÌ?

Khi đặt vấn đề với hai chữ “có thể”, căn bản là nói chuyện xem ra chưa có gì. Chỉ mới là suy đoán. Nghĩa là nói nghe có hay đến đâu, trong thực tế còn gần với con số không.

Một kinh nghiệm sống cá nhân, một thể hiện cụ thể dù là trong một nhóm nhỏ, trong một thời gian giới hạn, dù cho kết quả là một sự thất bại, những kinh nghiệm thực tế ấy còn có phần bổ ích hơn là những suy đoán dài dòng hào nhoáng. Vì chúng điểm ngón tay vào những chướng ngại thực tiển. Đương nhiên rằng bất cứ trong thực tế nào, trong điều kiện nào nhà Phật cũng trung thành với tinh thần “thí pháp” cố hữu của mình. Một hình ảnh đẹp, hình ảnh tung rải khắp bốn phương lời Phật dạy, như những cánh hoa đến với mọi người.

Nhưng cho dù là cánh hoa, đã nói là cho, là tặng thì phải có người nhận, có cách rải. Mà điều kiện vật chất, tâm tư, đời sống của người nhận, mỗi thời mỗi khác, mỗi nơi mỗi khác, mỗi người mỗi khác. Vì vậy xin nêu lên một vài câu hỏi:

1.Con người ngày nay tìm đến giáo lý đức Phật vì những động cơ, những lý do, nhu cầu gì? Có gì là đặc trưng theo lứa tuổi, thành phần xã hội, trình độ học thức, truyền thống gia đình, v.v….?

2.Đi vào thực tế, giáo dục Phật giáo ngày nay gặp những thuận lợi gì, những khó khăn nào? những kinh nghiệm thu thập được qua sống thực tiễn hãy còn là dạng tản mạt vụn vặt hiểu biết cá nhân, hay đã được trao đổi, thu thập đúc kết thành kho kinh nghiệm chung giúp ích cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề đưa lời dạy của đức Phật đến với mọi người?

Dĩ nhiên vấn đề không thu hẹp và giới hạn trong đất nước Việt Nam. Tại các nước xung quanh, đã có những thực hiện thích nghi Phật giáo với nhu cầu năng suất, hiệu năng vật chất của xã hội ngày nay như phong trào Won ở Cao Ly, các phái Soka Gakkai, Rissho Koseikai, Nipponzan Myohojl ở Nhật. Ta có thể tìm hiểu chăng và biết được những gì về các phong trào này? Chúng tatìm hiểu chăng và biết được những gì về các phong trào này? Chúng tatìm hiểu chăng trường phái Phật giáo mới Thái Lan phản ứng như thế nào trước xã hội đang hấp thụ lối sống Tây phương ngày nay; chúng tatheo dõi chăng cách giải thích tam tạng kinh điển theo lý thuyết khoa học ngày nay của các vị danh tăng Budhadasa bikkhu, Vichitr Ratna Dhiravamsa hay của phái Santi Asoke?

3.Một trong những truyền thống nhà Phật là lòng tin vô biên nơi tâm Phật ở mỗi người, ở mọi nơi, vào mọi thời đại. Đó là căn bản của truyền thuyết cho rằng lời đức Phật từ đỉnh núi Linh Thứu mãi mãi vang vọng khắp thế gian. Nói như thế là có một câu hỏi cấp thiết: ngoài kinh điển lưu truyền chúng ta cần học thêm những gì trong kho tri thức từ tâm Phật sinh ra và không ngừng phát triển để thích ứng với thân phận không ngừng biến chuyển của con người? Trong kho tri thức ấy, những gì là các “pháp môn không kể xiết” mà người Phật tử ngày nay hằng “thệ nguyện đều tu học”? Lý thuyếtphương pháp của xã hội học, của thông tin đại chúng có chỗ đứng như thế nào trong tri thức, trong cung cách mình tự tìm hiểu lấy mình, trong phong cách “thí pháp” của nhà Phật ngày nay?

Đó là một vài câu hỏi cụ thể liên quan đến giáo dục xin nêu lên để chúng ta suy ngẫm.

BS Bùi Mộng Hùng (8-1996)
Source: daitangkinhvietnam.org
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14636)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14615)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14049)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14933)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16548)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29867)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16209)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15528)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14880)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14870)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17877)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15569)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38657)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26708)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39641)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50742)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38722)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35031)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18301)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16463)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42388)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39229)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35600)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17452)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46505)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17145)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28489)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18986)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17584)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17105)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17538)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16527)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16872)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30828)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16933)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18499)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18449)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17375)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18163)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17068)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23485)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16983)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17456)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17661)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17053)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15733)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18025)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17389)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17184)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29509)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27709)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18158)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16102)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15357)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23018)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14830)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55100)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14197)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13244)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14171)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant