Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi điều cương yếu về kinh Địa Tạng

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 11177)
Đôi điều cương yếu về kinh Địa Tạng

Tựa đề của kinh Địa Tạng cần giải thích trước tiên là "U minh Giáo chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát". Có nghĩa đấng giáo chủ cõi U minh là Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát. Thông thường, chúng ta tin có một vị Bồ tát tên Địa Tạng, Ngài cầm trong tay phải một cây tích trượng và tay trái một hạt minh châu. Ngài xuống địa ngục làm giáo chủ, dùng tích trượng đập phá cửa địa ngục để cứu vớt chúng sanh, nếu chúng sanh chí thành niệm danh hiệu của Ngài. Nhưng liệu chúng ta tin một cách thật thà như vậy có đúng không ? Đó là điều đáng nói.

Chúng ta nên biết, sự sử dụng từ ngữ trong kinh điển thật hết sức sát nghĩarõ ràng : "Bổn" là bổn tâm. "Tôn" là tôn quý, "Địa" là tâm địa, "Tạng" là Như Lai tàng. Như vậy, chỉ có bổn tâm mới là tôn quý nhất, đó là kho Như Lai tàng tâm địa; chỉ có bổn tâm mới làm chủ được cõi u minh, tức làm chủ cõi địa ngục tham, sân, si của chính mình. Địa ngục chính là địa ngục tham, sân, si, vì chúng sanh khổ là do tham, sân, si mà khổ. Và khi có tham, sân, si đầy dẫy trong tâm, phiền não dấy khởi, thì cái gì mới phá được cửa địa ngục này ? ố Dĩ nhiên phải là Bổn tôn Địa Tạng của chính mình vậy. Quan trọng là mình phải nhận ra được Bổn tôn Địa Tạng ố nghĩa là tự tánh Như Lai tàng tâm địa, cái cực tôn cực quý, hoặc nói gọn như trong kinh Niết Bàn, nhận lại cái Phật tánh của mình, thì mình mới có thể đập phá được địa ngục tham, sân, si, và cứu giúp chúng sanh muôn loài. 

Nếu đọc các kinh điển Đại thừa, chúng ta sẽ thấy trong kinh dùng rất nhiều ngụ ngôn ngụ ý, ám chỉ nghĩa lý sâu xa huyền diệu. Cho nên, khi chúng ta quá chấp nê vào chữ nghĩa, hiểu những hình ảnh lung linh được diễn tả trong đó một cách quá thật thà, thì chúng ta sẽ khó lãnh hội được ý kinh. Mà không lãnh hội được ý kinh thì không thể nào hiểu được bản ý của Đức Phật. Kinh Địa Tạng không phải là thật giáo ố nghĩa là chỉ thẳng, mà thuộc quyền giáo ố nghĩa là quyền biến phương tiện, tức phải tạm dùng cái sự tướng lung linh huyền diệu đó để hiển bày cái lý tánh tuyệt đối kia. Khi muốn trỏ một cái thật, nếu dùng lý lẽ diễn đạt một cách chi li, thì dễ làm phát sinh những khái niệm từ thức tâm phân biệt, sẽ khó đi thẳng vào chân lý cứu cánh. Chẳng hạn như kinh Pháp Hoa, các dụ về Cùng tử, về tháp Đa Bảo, về Như Lai thọ lượng... Muốn nói lên điều gì ? Rõ ràng, các hình ảnh ấy đều nhằm kích thích trực giác hết. Kinh Địa Tạng ở đây cũng vậy, mẫu Bồ tát Địa Tạng và cõi U minh được diễn tả cũng chỉ là dùng sự để hiển lý. 

Đức Phật thường được các hàng đệ tử xưng tán là "Như Lai biết nghĩa, biết pháp, biết trình độ, biết thời cơ và biết chúng hội". Sự thuyết pháp của Phật căn cứ vào ba yếu tố : thời, xứ và vị ố nghĩa là thời gian nói pháp, nơi chốn nói pháp và đối tượng nghe pháp. Vì vậy, Phật không nói pháp nào chỉ có ý nghĩa một chiều. Có khi Ngài nói pháp thấp cho hàng căn cơ kém; có lúc Ngài nói pháp vừa cho hàng trung căn; cũng có khi lại nói pháp cao, rốt ráo cho hàng căn cơ bậc thượng. Cho nên, nhiều khi trong kinh điển chúng ta thấy có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng kỳ thực, đó là do tùy duyên hóa độ. "Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ", tất cả kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng, chúng ta phải nương ngón tay để thấy mặt trăng, nghĩa là phải nương vào văn tự trong kinh để khéo thầm hội được chân lý

Đối với kinh Địa Tạng, nếu chúng ta hiểu một cách thật thà và mê tín rằng, Địa Tạng là một vị Bồ táthình tướng rõ ràng, và có một cõi địa ngục thật sự, thì chúng ta đã chấp ngón tay là mặt trăng, chúng ta sẽ ỷ lại vào tha lực, tin tưởng vào thần quyền, rồi vô tình bài bácnhân quả. Nếu thật sự có một Bồ tát Địa Tạng đủ khả năng đập phá cửa địa ngục, thì chúng ta khỏi cần tụng kinh, tọa thiền hay tu Bát quan trai, chỉ cần một lòng cầu Bồ tát, chờ đến lúc chết sẽ có Ngài đến cứu. Như vậy thì, tinh thần ai ăn nấy no ố ai uống nấy hết khát có còn đâu ? Nhân nào quả nấy cũng không có ý nghĩa. Đức Phật ra đời cũng vô nghĩa luôn. Nhưng thật ra, vì sao chúng ta phải nỗ lực tu hành? Nếu chúng ta không cải ác phục thiện, không dứt trừ các nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý, thì có vị Bồ tát nào cứu vớt mình được? Ví dụ trong một lớp học, ông thầy đem hết khả năng để dạy một cách công bằng, nhưng có thể nào thầy làm toàn bộ học trò đều giỏi đồng đều như nhau không? Chủ ý của thầy là dạy hoàn toàn bình đẳng, nhưng kết quả học tập lại tùy thuộc trí thông minh, sự siêng năng cần mẫn, hoàn cảnh gia đình của mỗi học trò. Cũng như thế chư Phật và chư Bồ tát không phải hoàn toàn không có tha lực đối với chúng sanh, nhưng tha lực của các Ngài chỉ là sức trợ duyên mà thôi. Đức Phật ra đời, khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, nhưng khai thị mà chúng sanhngộ nhập được hay không là do ở mỗi chúng sanh. Nếu Phật có thể ban cho chúng sanh cái tri kiến Phật ấy, thì chúng sanh đâu cần tu, và tinh thần "Tự thắp đuốc lên mà đi" hóa ra vô nghĩa. Cho nên, nếu có suy nghĩ một chút, ta sẽ thấy, mọi kinh điển đều nhằm kích thích trực giác để ta nhận ra cái Bổn tôn Địa Tạng, rồi tự nỗ lực để cứu chính mình ra khỏi sinh tử luân hồi

Trước khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt ở rừng Ta La Song Thọ, Ngài đã tuyên bố rất rõ : "Các ông hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp". Nếu chúng ta không tự thắp đuốc lên mà đi, cứ trông cầu nơi Phật, Bồ tát, thì chúng ta đã rơi vào thần quyền mất rồi ! Đức Phật đã trở thành một vị thần linh rồi. Và nếu chúng ta thần thánh hóa các Ngài, các Ngài sẽ bị giảm giá trị; giáo lý của Đức Phật cũng bị đánh mất tính thực tiễn, tính khoa học và tính nhân bản, là nền tảng giá trịđạo đức muôn đời của đạo Phật. Cho nên, sự học Phật của chúng ta, mỗi mỗi phải y cứ vào tinh thần "tự mình thắp đuốc", vốn là kim chỉ nam cho mỗi người con Phật, dù là xuất gia hay tại gia. Chúng ta cần biết rằng, khi luận đến nghĩa lý sâu xa của kinh điển Đại thừa, thì khi nói đến chúng sanh, phải hiểu là chúng sanh tâm, bởi vì ngoài tâm khôngchúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm có nói, tâm như người thợ vẽ, vẽ ra mỗi ngũ uẩn của chúng ta. Mỗi thân ngũ uẩn được tác tạo do vọng tâm, nói cách khác là do nghiệp lực. Như vậy, nói đến chúng sanh chánh báo, đó là chúng sanh tâm, còn hoàn cảnh y báo cũng không ngoài tâm mà có. Ở đây cũng vậy, chúng ta phải luôn luôn quy trở về bản tâm của chính mình thì mới hiểu được ý kinh. Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình. Nếu chúng sanhchúng sanh tâm, thì Phật cũng là Phật tâm, ngoài tâm không có Phật; nếu địa ngụcđịa ngục tự tâm, thì Địa Tạng tất nhiên cũng là Địa Tạng tự tâm vậy. Cho nên, có thể nói, không thể nào lìa tâm để tu hành, không thể nào lìa tâm mà giải thoát. Đây là điều chúng ta phải hết sức lưu ý. Chúng ta tu là tu tâm của chúng ta, nếu thanh tịnh cũng là thanh tịnh cái tâm; khi giác ngộgiác ngộ tự tâm, cho đến lúc thành đạo cũng là thành tựu lại cái bản tâm ấy. Ngoài tâm sẽ không có cái gì cả. Đó là chỗ y cứ của tất cả kinh điển Đại thừa

Thông thường, nếu hiểu theo sự tướng, thì quy y Phậttrở về nương tựa nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, quy y Pháp tức quy y giáo pháp của Ngài, và quy y Tăng nghĩa là quy y những Tăng sĩ tu hành thanh tịnh. Nhưng nếu hiểu theo tinh thần của Lục Tổ Huệ Năng, hoặc của các kinh điển Đại thừa, thì quy y Tam bảo tức là Tam bảo tự tâm: Phật là tánh giác của chính mình, Pháp là chánh kiến sẵn đủ nơi tự tâm, Tăng chínhbản tâm thanh tịnh (Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh). Hiểu như thế mới trọn vẹn cả sự và lý, chứ nếu chỗ quy hướng lại ở bên ngoài, đó chính là ngoài tâm cầu Phật ố tức là ngoại đạo. Bởi Phật là Phật tâm, mà trở về với tự tánh Địa Tạng là một sự quy y lớn. Chính vì sự quy y này mà cả ba đời Như Lai đồng kính ngưỡng, và mười phương Bồ tát mới trọn trở về nương tựa. Chúng ta sẽ khảo sát điều này kỹ hơn khi đọc đến đó. 

Trở lại từ đầu : Chúng ta nên biết, bài tựa xưng tán Bổn tôn Địa Tạng chính là cương lĩnh, là kim chỉ nam, là tổng quan của toàn bộ bản kinh. Cho nên, nếu hiểu rõ được bài tựa này, ta sẽ hiểu được toàn bộ bản kinh không khó :

"Dốc lòng cung kính lễ 
Giáo chủ cõi U minh 

Là Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát"

Cung kính lễ mà dốc lòng, có nghĩa là toàn tâm toàn trí cung kính lễ. Giáo chủ cõi U minh tức là bản tâm thanh tịnh của chính mình. Như vậy, đây là một sự quy y trở về với Bổn tôn Địa Tạng của mình. 

"Cúi đầu kính lễ Đấng Giáo chủ đại từ bi 
Giống như đất bền chắc, sâu dày, rộng chứa khắp".

Đất ở đây có nghĩa là đất tâm. Đất tâm rất kiên cố, không có gì công phá được, hủy diệt được. Tâm địa kiên cố là đức tính thứ nhất của Bổn tôn Địa Tạng. Đức tính thứ hai là sâu dày. Chúng ta thấy, biển sâu cách mấy cũng có thể dò được, nhưng làm sao dò được tâm ? Tâm khônghình tướng, kích thước, rút lại thì trên đầu mũi kim, bủa ra thì trùm khắp pháp giới; cho nên gọi là sâu dày. Đức tính thứ ba là rộng chứa khắp. Phật dạy : Bổn tâm của mỗi chúng sanh thật bao la không ngằn mé, nếu đem hư không so với bổn tâm, cũng như hòn bọt ví cùng biển cả. 

Chúng ta dám nhận mình có Bổn tôn Địa Tạng không ? Nếu chúng ta không dám nhận, thì như kinh Pháp Hoa nói, chúng ta là những cùng tử xin ăn đầu đường góc chợ, con của trưởng giả mà cứ chịu lang thang. Lẽ ra, biết rõ cha mình rất giàu có, vàng bạc kho lẫm dẫy đầy, chúng ta phải trở về thọ hưởng gia tài của cha. Cũng như thế, chúng ta có cái Bổn tôn Địa Tạng kiên cố sâu, dày, rộng chứa khắp này, mà lại cô phụ cái tánh linh của chính mình, rồi trôi giạt trong sáu đường ba cõi. Đó là cái bi kịch của kiếp người.

Tiếp theo, khi tán dương đúng mức công đức của Bổn tôn Địa Tạng rồi, thì bắt đầu những hình ảnh lung linh huyền diệu :

"Thế giới phương Nam bủa mây hương, 
Mưa hương, mây hoa và mưa hoa,

Mưa báu, mây báu nhiều vô số,

Ứng hiện điềm lành khắp trang nghiêm".

Phương Nam là cõi Nam Thiệm Bộ Châu, tức cõi Diêm Phù Đề này. Thế giới lúc này không những có mây hương mà còn có mưa hương, mây hoa, mưa hoa, và cả mưa báu, mây báu nhiều vô số nữa. Chúng ta có tin rằng, trong cõi Ta-bà này mà có mây hương mây hoa không ? Nếu chúng ta tin trong dãy da hôi thối này có hòn ngọc như ý, trong lò lửa vô thường này có hoa sen nở, thì sẽ tin có những điềm lành ấy ứng hiện. Nói theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm, khi nhận được bổn tâm, liền tức khắc tất cả các pháp đều trở thành những phẩm vật trang nghiêm. Có nghĩa là, khi một người nhận ra bổn tâm của chính mình, tức khắc tất cả pháp đều trở thành thị giả cho vị ấy. Bởi vì "Tất cả pháp đều từ tâm sanh". Mê thì tất cả toàn mê, mà khi giác thì "Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp", tất cả pháp đều là pháp Phật, cõi Ta-bà liền tức khắc trở thành Tịnh độ.

"Trời Người hỏi Phật : là nhân gì?
Phật bảo : Địa Tạng Bồ tát đến".

Khi thấy ứng hiện những điềm lành, trời người trong chúng hội đã hỏi Phật, đó là do nhân duyên gì ? Phật trả lời, Bồ tát Địa Tạng đến. Nếu hiểu theo sự, chúng ta tưởng có một vị Bồ tát Địa Tạng, tay cầm tích trượng và ngọc minh châu đi đến. Nhưng nếu theo lý, phải hiểu rằng, Bổn tôn Địa Tạng xuất hiện nguyên hình, cái nguyên hình mà từ vô thủy đến vô chung chúng ta đều có mà lại quên đi. Đó là cái tâm thanh tịnh, cái tâm giác ngộ ứng hiện ra bên ngoài thành cái thấy, nghe, hay, biết của chúng ta. Nếu nhìn các pháp mà chúng ta không có một chút vọng tưởng điên đảo nào hết, thì Bồ tát Địa Tạng hiện tiền, các pháp đều trở thành vi diệu. Nếu nói theo tinh thần kinh Pháp Hoa, là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật; còn theo kinh Địa Tạng, đó là khai thị cho chúng sanh nhận ra cái Bổn tôn Địa Tạng của chính mình. Đây là mục đích duy nhất của chư Phật khi ra đời. Nếu hiểu được nghĩa lý thâm sâu của sự kiện Bồ tát Địa Tạng xuất hiện, chúng ta sẽ sáng tỏ được hai câu kế tiếp :

"Ba đời Như Lai đều kính ngưỡng,
Mười phương Bồ tát trọn quy y"

Hiểu theo sự, chúng ta sẽ thấy vô lý. Phật làm sao kính ngưỡng Bồ tát là vị có trình độ giác ngộ, trình độ tâm linh kém hơn? Cho nên, chúng ta phải hiểu theo nghĩa lý thâm sâu của nó. Kinh Bát nhã đã nói : Bát Nhã là mẹ chư Phật mười phương ba đời. Bát nhã là chánh nhơn tu hành của Bồ tát, là nguồn cội của tất cả mọi sinh linh hữu tình. Nếu hiểu Bát nhã như vậy, mới hiểu được vì sao Địa Tạng lại được ba đời Như Lai kính ngưỡng. Bồ tát Địa Tạng ở đây là bản tâm của chính mình, mà bản tâm thì ở chư Phật, Bồ tát đều bình đẳng như nhau. Phật ố Phật đồng đẳng ở bản tâm. Phật ngộ là ngộ tâm, chứng là chứng tâm. Đã ngộ tâm chứng tâm, thì chư Phật kính ngưỡng bản tâm là điều hợp lý

"Nay con đầy đủ nhân duyên lành 
Tán dương công đức chân thật của Địa Tạng".

Tán dương mà hiểu được Địa Tạngbản tâm thanh tịnh của chính mình, thì mới là tán dương chân thật, mới gọi là đầy đủ nhân duyên lành. 

"Ngài là hiện thân của Từ bi, của mọi điều lành, 
Ngài thệ cứu độ tất cả chúng sanh"

Từ bi có ở ngoài tâm không ? ố Từ bi là ở nơi tâm, là dụng của tâm, nên nói Ngài là hiện thân của từ bi. Làm tất cả mọi điều lành, tạo bao nhiêu công đức cũng không ngoài tâm để tạo, nên nói Ngài là hiện thân của mọi điều lành. Và theo lời nguyện của Ngài : "Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề". Khi độ sạch hết chúng sanh tâm vào vô dư Niết bàn, theo tinh thần kinh Kim Cang, thì mới triệt chứng Bồ đề. Nếu còn một chúng sanh tâm, nghĩa là địa ngục chưa hoàn toàn trống, thì chưa thành Phật được. 

Bây giờ nói đến biểu tướng của Ngài Địa Tạng :

"Tích trượng cầm trong tay mở toang cửa địa ngục,
Trên tay có hạt minh châu lóng lánh ánh sáng soi khắp đại thiên thế giới".

Đây là một hình ảnh lung linh huyền diệu nữa. Chúng ta thấy, tích trượng của Ngài có bốn cái vòng, đó là tượng trưng cho Tứ đế, có mười hai khuy, tượng trưng mười hai nhân duyên. Ngài cầm tích trượng trong tay có nghĩa quán triệt được Tứ đếThập nhị nhân duyên. Tích trượng cũng tượng trưng ý chí kiên cường, khi có đủ ý chí đại hùng đại lực, mới mở toang được cánh cửa địa ngục tham, sân, si của tự tâm. Hạt minh châu lóng lánh tức hòn ngọc như ý, tượng trưng bản tâm thanh tịnh, có ánh sáng soi khắp đại thiên thế giới, nghĩa là tính thường chiếu của tâm, soi sáng cùng khắp. Do đó khi tỏ được lý Tứ đếThập nhị nhân duyên, rồi nhận ra bản tâm thanh tịnh, thì đủ sức phá tan địa ngục tham, sân, si trong tự tâm, đạt đến cứu cánh giải thoát

"Ngài chính là Diêm Vương trên điện".

Diêm Vương là vị vua xử tội chúng sanhâm phủ, tại sao Bồ tát Địa Tạng lại là Diêm Vương? Nếu ai làm việc phạm pháp hay tạo tội ác, dù đôi khi giấu được mọi người, trốn tránh được pháp luật, nhưng không thể giấu được tòa án lương tâm của mình. Như vậy, chính lương tâm, lương tri, tức Bồ tát Địa Tạng, là Diêm Vương xử tội cho chính mình. Mình vừa khởi một niệm ác, niệm ấy liền in vào A-lại-da thức, thành nghiệp ác

"Ngài chính là gương nghiệp trước đài"

Nghiệp giống như gương soi, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Khi bản tâm thanh tịnh, các pháp hiển bày thể tánh, khi còn vô minh, nghiệp in vào A-lại-da thức như vật hiện trong gương, lưu ảnh trước đài. Như vậy, tạo tội là do mình, tạo phước cũng do mình, chúng ta từ đây trở đi có dám tạo tội nữa không? Bởi chính mình vừa là gương nghiệp, vừa là Diêm Vương, thì trốn đâu cho khỏi ? Sự tu hành rất là sòng phẳng, có phải vậy không ?

"chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Đề 
Bậc giáo chủ chứng minh mọi công đức"

Tự tâm của mình sẽ chứng minh mọi công đức cho mình. Chúng ta thấy, chính tâm là nguồn cội của mọi công đức, mà cũng là gốc rễ của tội lỗi; chính tâmcăn bản của giải thoát sinh tử, mà cũng là gốc của luân hồi. "Công vi thủ, tội vi khôi" là như thế. 

"Nay thành tâm kính lễ 
Đại bi, Đại nguyện, Đại thánh, Đại từ 

Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát".

Xin được nhắc lại, Bồ tát Địa Tạng nếu nói về lý, là một nhân vật tượng trưng, ngầm chỉ cái cực tôn quý sẵn có nơi mỗi chúng ta. Cho nên, khi đến chùa đảnh lễ Bồ tát Địa Tạng, nên nhớ đến Địa Tạng tự tánh của chính mình. Chỉ có Địa Tạng này mới đủ năng lực phá đổ tường thành vô minh và cứu vớt mình khỏi địa ngục tham, sân, si tối tăm. Cái gọi là thiên đường không có ở ngoài tâm, địa ngục cũng không ngoài tâm mà có. Tâm như người thợ vẽ, tạo hoàn cảnh chánh báoy báo của mỗi chúng sanh, tạo nên tất cả sự vật trên thế gian, tạo cả sáu đường ba cõi. Cho nên, người ngộ được tâm và sống viên mãn với tâm, người đó được gọi là Phật. Phật là giác, nghĩa là giác cái tâm sẵn đủ ở mình, chúng sanh si mê nên thọ khổ, cũng là thọ khổ nơi tự tâm; Bồ tát Địa Tạng cứu độ chúng sanh cũng phải là chúng sanh tâm. Đức Phật thuyết kinh lúc nào cũng có sự và lý, sự dùng những hình ảnh để làm phương tiện, lý nhằm hiển bày cái chân lý cứu cánh kia. Có nhiều người đọc kinh điển Đại thừa, lại chấp vào sự mà không hiểu lý, nên dễ rơi vào "mê tín Đại thừa". Vì vậy, chúng ta phải khéo tư duy, khéo thâm nhập, mới thấy cái thú vị của kinh. Nếu không, sẽ thấy kinh có vẻ lạc lõng, không phù hợp với thời đại khoa học hiện giờ. Thực ra, cảnh giới của một người đã giác ngộ rất khác với người thường: tất cả sự vật tầm thường đều đứng lên diễn bày Phật pháp, như kinh Di Đà đã nói, tiếng suối reo, tiếng chim hót đều là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tất cả pháp luôn luôn mời gọi, nhưng vì chúng ta không lắng tâm lại để nghe, mải chạy theo những vọng tưởng lăng xăng điên đảo, nên không biết rằng tất cả tiếng đều là tiếng Phật. Trên mặt đất hiện thực của cuộc đời này, nếu tâm ta thanh tịnh, ta sẽ thấy nơi nào cũng có bảy báu, nước nào cũng là nước tám công đức, ở đâu cũng là cõi Cực lạc.

Tất cả pháp đều hướng từ nơi tâm, tất cả cảnh giới đều do tâm lượng mà biến hiện. Ví dụ, chỉ là một dòng sông, nhưng đối với loài người thì đó là nước để sử dụng; đối với loài cá, là thế giới cho chúng bơi lội sinh sống, là không khí cho chúng thở; đối với loài ngạ quỷ, lại thấy đó toàn là máu; còn đối với chư Thiên, thì do phước nghiệp nên các vị thấy là lưu ly pha lê trong suốt. Như vậy, dòng sông đã lên tiếng tùy tâm lượng của mỗi chúng sanh. Cho nên, cõi Tịnh độ hay thế giới Ta-bà cũng ở tại đây, thiên đường hay địa ngục cũng tại đây hết. 

Trong sự học Phật, nếu hiểu được kinh điển theo tinh thần lý sự viên dung như thế, ta sẽ cảm thấy rất tự tin, không sống theo sự mong cầu và ỷ lại vào tha lực. Tự nhiên sẽ hợp với lý nhân quả, với lời Phật dạy "Tự thắp đuốc lên mà đi". Không ai có thể ăn uống giùm, sống giùm cho ai. Nếu tự do tạo nghiệp ác rồi cầu nguyện Bồ tát Địa Tạng, tin rằng Bồ tát có thể cứu mình, thì ý nghĩ đó hết sức sai lầmtai hại, đó hoàn toàn không có chánh kiếnchánh tín

Ở đây, chúng ta cũng cần nhận định cho rõ, địa ngục không phải hoàn toàn không có. Địa ngụcđịa ngục tự tâm, nhưng đó cũng là cảnh giới do nghiệp cảm đồng phận của chúng sanh. Nghiệp ác giống nhau sẽ chiêu cảm một cảnh giới như nhau. Ví dụ, Phật ố Bồ tát thấy cõi người là cảnh huyễn mộng, không thật; nhưng chúng ta vẫn thấy đây là thật, do nghiệp người của tất cả chúng ta, chưa giải thoát được sinh tử. Tương tự, cảnh giới địa ngục không có thật đối với các bậc giác ngộ, nhưng vẫn là thật đối với những chúng sanh tạo tội. Ở thế gian cũng thế, những người cùng một nghiệp thường có khuynh hướng cùng tụ tập với nhau ở một môi trường, một cảnh quan tương ứng : kẻ trộm cướp vào tù, những người ham tu cùng nhau đến chùa tụng kinh, nghe pháp

Tóm lại, địa ngục nghĩa là tham, sân, si phiền não của chúng sanh. Địa ngục cũng chính là cảnh giới của ba nghiệp ác, từ thân, khẩu, ý phát sinh ra. Địa ngục là sự tối tăm ám chướng, là sự mê muội trong tâm thức của mỗi người. Đó chính là địa ngục tự tâm. Phật nói kinh Địa Tạng là cốt cảnh tỉnh tất cả chúng ta dẹp bỏ tham, sân, si nơi tự tâm, tu tập ba nghiệp lành nơi tự tâm, rồi dứt nghiệp cũng nơi tự tâmgiải trừ vô minh tăm tối cũng nơi tự tâm. Cuối cùng trở về với tự tánh Bổn tôn Địa Tạng của chính mình. Đó là cương lĩnh của toàn bộ kinh Địa Tạng.

Về phần chính văn trong bản kinh, đề nghị chúng ta đọc kỹ và hiểu theo nghĩa lý sâu mầu của kinh. Rồi sẽ thấy kinh nói chuyện với mình nhiều điều hết sức mới mẻ, mầu nhiệm. Khi hiểu rõ ý kinh, sự trì tụng mới có đầy đủ ý nghĩa, đời tu của chúng ta mới đúng theo quỹ đạo tu hành; nếu không, chúng ta có thể rơi vào đường tà, vào mê tín, thì uổng một đời làm đệ tử của Phật. Chúng tađệ tử Phật, tắm mình trong ánh hào quang của Phật, hào quang ấy là trí tuệ Phật tâm sẵn đủ của chính mình. Chúng ta phải nương hào quang ấy, khai phát ra, để trí huệ ngày càng sáng suốt, tham, sân, si ngày càng thưa mỏng, nghiệp chướng ngày càng tiêu trừ, những vọng tưởng điên đảo ngày càng giảm thiểu. Lúc ấy, Bồ tát Địa Tạng sẽ xuất hiện, cửa địa ngục tham, sân, si sẽ bị phá đổ. Mong rằng tất cả những người hữu duyên đều được lợi ích, và hãy y cứ vào đó tu hành, từ đây cho đến ngày viên mãn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7353)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4521)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4566)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7338)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2963)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3995)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4224)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6686)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4009)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4126)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5339)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3788)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4529)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3552)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3931)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4391)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3843)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3941)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3876)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4828)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4527)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4261)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3830)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4638)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4210)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6112)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4608)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4949)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4193)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4826)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5671)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3652)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4038)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4591)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5287)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3148)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4764)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4557)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4293)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4490)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4607)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7219)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5213)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5008)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4596)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5271)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4163)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6019)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4720)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4878)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5484)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5621)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5822)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant