Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bàn Về Phật Lịch

02 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12033)
Bàn Về Phật Lịch

I. Xác định những mốc lịch sử:

1. Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni). Về vấn đề này, hiện có nhiều thuyết, và nhiều tài liệuViệt Nam chưa nhất quán.

- Mật thể - "Việt Nam Phật giáo sử lược", Minh Đức tái bản, 1960, trang 27 có ghi năm đản sinh như nhau: 1027, 1023, 685, 624, 566, 561, 557, 487, 466 TCN.

- Nguyễn Lang - "Việt Nam Phật giáo sử luận" tập I, 1973, không nêu vấn đề trên.

- Vân Thanh - "Lược khảo Phật giáo sử VN" 1974 thì cho rằng đản sinh vào năm 563 TCN và nhập diệt vào năm 483 TCN (trang 22).

- Lê Mạnh Thất - "Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam", tập 1, Tu thư Vạn Hạnh, cảo bản in rônêô, 1976 ghi là sinh vào khoảng thế kỷ VII trước CN.

- Thích Thanh Kiểm - "Lược sử Phật giáo Ấn Độ", Quê hương, tái bản 1971, xác định đản sinh ngày mùng 8 tháng 4 năm 642 TCN và nhập Niết bàn vào ngày Rằm tháng hai năm Ngài 80 tuổi (544 TCN).

Sau đó ghi thêm 2 thuyết khác là:

+ 566 - 486 TCN (sách Chúng Thánh Điểm Ký)

+ 563 - 483 (Sử Pipavamsa của Nam Phương Phật giáo)

Và ghi thêm: Phật giáo Nam Phương: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan lại thường lấy năm đức Phật nhập Niết bàn tức năm 544 TCN làm lễ kỷ niệm (sđd trang 31 - 41).

- Thích Minh Tuệ - "Lược sử Phật giáo Việt Nam" (1993) có ghi các mốc ngày tháng đản sinh, xuất gia, thành đạonhập Niết bàn.

- PGS TS Trần Ngọc Thêm - "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", 1997, chương 6, mục 22 "Phật giáo và văn hóa Việt Nam" (trang 469 - 470) thì cho rằng sinh khoảng 563 TCN và qua đời khoảng năm 483 TCN. Trước đó, tác giả lại ghi "Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ V TCN" (trang 469) (Cũng trong mục này, tác giả có những điểm không nhất quán, hoặc nhầm lẫn. Chúng tôi sẽ có dịp đề cập ở một bài viết khác).

- Huyền Cương - "Thử bàn về cách tính Phật lịch", Nghiên cứu Phật học số 1 - 1997 (trang 25 - 26), sau khi tác giảm làm các phép tính và khẳng định các mốc thời gian: đản sinh 623, xuất gia 604, thành đạo 593, chuyển bánh xe pháp 592, nhập Niết bàn 544 TCN.

- Chúng tôi thiển nghĩ rằng, tất cả các mốc thời gian trên đều dựa vào nhiều truyền thuyết lịch sử đức Phật Thích Ca mà sử sách cũ ghi lại. Có điều, tại sao chúng ta lại không lấy cái mốc thời gianĐại hội Phật giáo Thế giới họp tại Tích Lan lần thứ 1 vào năm 1952 làm chính thống. Tại đại hội này, các vị đại biểu cao tăng thạc đức của toàn cầu đã thống nhất định ra Phật kỳ và Phật lịch. Riêng về Phật lịch, lấy năm đức Thích Ca nhập Niết bàn làm mốc để tính năm đầu Phật lịch. Truyền thuyết về lịch sử đức Phật đều thống nhất là Ngài thọ 80 tuổi (còn các mốc khác lại không nhất quán). Theo cái mốc này ta tính ra như sau:

* Năm 1996 Phật lịch 2540. Điều đó có nghĩa là Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh cách đây:

2540 + 80 = 2620 năm và năm đản sinh sẽ là năm 624 TCN, vì 2620 - 1996 = 624

Rất tiếc, trong bài báo của mình, tác giả Huyền Cương dù đưa ra cách tính rất khoa học, sáng tỏ nhưng lại nhằm Phật Lịch 2540 ứng với dương lịch 1997 nên đã xác định năm sinh là 623. Theo chỗ chúng tôi hiểu, tuy Phật giáo thế giới trong kỳ Đại hội 1952 lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập diệt là cái mốc để tính năm đầu tiên của Phật lịch, nhưng lại lấy ngày đản sinh (mùng Tám tháng tư hoặc rằm tháng tư) để tính là đầu năm. Vậy Phật lịch 2540 tính tư 8 - 4 Bính Tý 1996, còn năm 1997 (đến ngày 8 - 4 Đinh Sửu 1997) mới tính Phật lịch 2541.

Từ cái mốc trên, căn cứ vào truyền thuyết về lịch sử đức Phật Thích Ca, ta có thể suy ra các mốc sau. (Hiện có nhiều thuyết khác nhau nói về tuổi của năm xuất gia, năm thành đạo. Ở đây chúng tôi dựa vào thuyết tương đối phổ biến mà nhiều nhà Phật học đã chấp nhận).

* Năm xuất gia: 624 - 19 tuổi - 1 (tuổi mụ) = 604 TCN

* Năm thành đạo: 624 - 31 tuổi = 593 TCN

(Tài liệu không nêu rõ số năm đi tu, chỉ nói rằng, Thái tử Tất Đạt Đa sau một thời gian dài tham học các bậc danh sư, kỳ đức như Bạt Già Bà (Bhagavà); A Ra La Ca Lan (Aràlakàlanma) và Uất Đà Ka La Ma Tử (Udraka - Ràmaputta) với nhiều tư tưởng triết lý khác nhau, không xác định rõ số năm. Sau đó, Ngài tự nghĩ "phải chính mình tu thì mới tìm được chính đạo", nên vào rừn phía Tây ngạn sông Ni Liên Thuyền (Naira - njanà) tu khổ hạnh trong 6 năm ròng. Tuy thế, cũng chưa đạt chính quả. Nhờ uống bát sữa của thiếu nữ chăn bò tên Sugìata (Thanh Kiểm ghi là tên Nan Đà) mà Ngài bỏ phương pháp khổ hạnh, ngồi thiền định và chứng ngộ Vô thượng đại Bồ đề vào ngày mùng tám tháng chạp.

* Năm sơ chuyển pháp luân độ 5 anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Dã vào năm sau, tức năm 592 TCN.

* Từ khi thành đạo đến khi nhập Niết bán, đức Phật đã thuyết pháp hoằng hóa trong 49 năm (tính luôn sơ chuyển pháp luân). Vậy ngày nhập Niết bàn là vào năm: 593 - 49 = 544 TCN.

Trên đây là những mốc quan trọng. Ta cũng có thể làm phép tính ngược (lấy năm nhập Niết bàn làm mốc) như tác giả Huyền Cương. Có điều cần lưu ý năm đản sinh như chúng tôi đã nêu ở trên.

II. Đôi điều cần bàn thêm về Phật lịch:

- Mặc dù vào năm 1952, Đại hội Phật giáo thế giới lần thứ I họp tại Tích Lan định ra Phật kỳ và Phật lịch thống nhất trên toàn cầu, nhưng qua tham khảo ý kiến của các bậc cao tăng thạc đức ở tỉnh hội Khánh Hòa, cũng như ý kiến của tác giả Huyền Cương trên tạp chí số 1 - 1997, chúng tôi thấy rằng:

Cách tính Phật lịch mà Đại hội Phật giáo thế giới đã thống nhất có điều chưa hợp lý và thiếu thuyết phục. Chúng tôi rất đồng tình với điều băn khoăn của tác giả Huyền Cương trong bài báo nói trên. Bởi lẽ, nếu tính từ năm nhập Niết bàn thì 49 năm đức Thế Tôn thuyết pháp độ sanh sẽ tính và chỗ nào?

Chúng tôi tâm đắc ý kiến của tác giả rằng: "Sự kiện Ngài bắt đầu chuyển bánh xe pháp mới thực đáng được xem như ngày mở đầu cho kỷ nguyên Phật giáo tại thế gian này, và năm 592 trước dương lịch đáng được chọn làm mốc tính Phật lịch. (NCPH số 1 - 1997). Nhưng tôi nghĩ thêm: có lẽ phải tính Phật lịch từ lúc Ngài thành đạo (tức năm 593 TCN) thì hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, có thành đạo, chúng được quả Vô thượng Bồ đề thì từ đó Ngài mới thuyết pháp độ sanh, mới có cơ duyên gieo những hạt giống đạo pháp tốt đẹp, để con người trên thế giới này có điều kiện sống gần gũi với nhau trong tình thương hòa bình, đầy tình người, đậm chất nhân văn hơn. Đây cũng là niềm mơ ước của hàng tỷ con người trên thế giới hiện nay. Cuối cùng, xin cảm ơn tác giả Huyền Cương đã gợi cho tôi có vài suy nghĩ, và qua đôi điều cần bàn thêm, rất mong Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tổng hội Phật giáo thế giới quan tâm xem xét và có nên định lại Phật lịch thống nhất trên toàn cầu chăng?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5185)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2665)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6137)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3058)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3102)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3303)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3233)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3300)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4555)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2729)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5208)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3861)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3842)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3208)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4129)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5039)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3513)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6744)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3963)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3219)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3099)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2962)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5860)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4630)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3493)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2896)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3308)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4428)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5719)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6635)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3718)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4538)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4605)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3972)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3406)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4616)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6042)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5835)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3636)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4685)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4458)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4525)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4262)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4597)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8215)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3923)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5722)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5195)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6823)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6175)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5990)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5799)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6280)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6779)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4972)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5568)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6390)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3783)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5414)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10465)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant