Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Phật: con người của mọi thời đại

02 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10441)
Đức Phật: con người của mọi thời đại

Gần 25 thế kỷ trôi qua, Đức Phật : một con người có thật trong lịch sử nhân loại - vẫn còn để lại những dấu ấn đầy tính nhân bản với những lời dạy của Ngài làm cho con người có nhiều suy tư về vị giáo chủ đã tuyên bố: "Con người và chỉ có con người mới có thể thực hiện những hoài bão lý tưởng hưóng đến Phật quả". Chúng ta có thể gọi Đức Phật là một con người tuyệt vời trong nhân tính và cũng chỉ có Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất trên hành tinh chúng ta khẳng định vị trí của con người: "Các Người là nơi nương tựa của chính mình, là hòn đảo chứ không còn nơi nương tựa nào khác". Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật trong hơn 40 năm hoằng pháp lợi sanh.

Hôm nay chúng ta nhìn lại nền giáo lý của Đức Phật trong hoàn cảnh các dân tộc trên thế giới bước vào thiên niên kỷ mới, mọi người không phân biệt Âu, Á, màu da, chủng tộc đều mong muốn có một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ; con người không còn khổ đau bệnh tật và đói nghèo. Điều này không phải của riêng ai mà của cả toàn nhân loại trên hành tinh này đều hướng về con đường lý tưởng đó. Trong dòng chủ lưu đó con người là chủ nhân ông quyết định và điều này lại khẳng định một lần nữa vai trò của nền giáo lý Đức Phật không phải là vô ích, nếu không muốn nói là giáo lý đó có những tư tưởng tiến bộ để con người tự xây dựng một xã hộicon người đang đi tìm giải pháp.

Đức Bổn Sư Thích Ca tên là Sidhartha họ Gotama, ra đời cách đây hơn 2.500 năm tại Bắc Ấn Độ vào TK VI trước Tây lịch. Thân phụ là Suddhodana (Tịnh Phạn) cai trị vương quốc của dân tộc Kàkyas (Nepal ngày ngay), mẹ là Hoàng hậu Maya.Theo tục lệ lúc bấy giờ Ngài kết hôn với Công chúaYasodharà (Da-du-đà-la). Là một Thái tử đương triều sống trong cung điện đầy đủ tất cả những vật chất xa hoa, nhưng khi va chạm với đời sống bình thường thực tại, Ngài nhận thấy khổ đau của kiếp người, Ngài quyết định bỏ lại sau lưng uy quyềnđịa vị để tìm giải pháp cứu mình và cứu người.

Trong 6 năm làm một nhà khổ hạnh, Đức Phật đã đi khắp thung lũng sông Hằng tìm học những vị thầy nổi tiếng lúc bấy giờ, nhưng Ngài thất vọng vì họ không chỉ dạy được gì mà Ngài muốn đến. Đức Phật đã từ bỏ tất cả những phương pháp mà Ngài đã học, đi theo con đường riêng của Ngài. Và một hôm Ngài phát đại nguyện dưới cội cây bồ đề trên bờ sông Neranjarà (Ni Liên Thiền) tại Buddha-Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) xứ Bihar ngày nay: "Dù thân ta có tan thịt ta có nát, nếu không tìm ra đạo, ta nguyện không rời chỗ ngồi này".

Từ nơi đây Ngài thực sự đạt được đỉnh cao của trí tuệ, thành bậc Giác ngộ, chuyển bánh xe Chánh pháp đem lại lợi lạc cho con người với những phương pháp mà Ngài đã tìm ra được; và cũng từ đó những phương phápĐức Phật đưa ra như là những phương thuốc trị những căn bệnh mà loài người đang gặp phải: "Hỡi các Tỳ kheo, có hai thứ bệnh. Hai bệnh ấy là gì? Bệnh thể xác và bệnh tinh thần. Có những người hưởng sự vô bệnh và thể xác trong một năm, hai năm... cả đến trong một trăm năm hay hơn nữa. Nhưng này các Tỳ kheo, hiếm thay trong thế gian này là những người hưởng được sự vô bệnh về tinh thần, ngay cả trong chốc lát, trừ phi những người thoát khỏi sự xấu xa ô uế" (chỉ cho những vị đắc A-la-hán). Hình ảnh giáo lý và nhân cách của Ngài vẫn là bức thông điệp nhân bản muôn đời gởi đến cho nhân loại. Những lời dạy của Đức Phật đã thành những điệp khúc bất tuyệt vượt ra ngoài không gianthời gian, những lời dạy đó nhằm vào tinh thần giải thoát cho con người thoát khỏi khổ đau bởi những trói buộc của phiền não và vạch ra con đường để cho những ai muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của kiếp nhân sinh. Có người cho rằng giáo lý của Phật dạy quá cao siêu khó có thể ứng dụng trong đời sống hàng ngày trong nền phát triển KHKT hôm nay; vì nếu muốn trở thành những người Phật tử phải từ bỏ việc này, ngăn ngừa việc khác trong khi đời sống bình thường của con người ngày nay thực hiện vì "cơm, áo, gạo, tiền" để mưu sinh cho gia đình và cho chính bản thân họ. Đó là một quan niệm sai lầm về giáo lý Đức Phật. Thông thường phần đông thường đi đến kết luận một cách vội vã, chủ quan, chỉ hiểu được một khía cạnh thiên lệch sau khi đọc một quyển kinh hay một cuốn sách Phật của một tác giả nào đó mà lại không hiểu hết những giáo lý cốt lõi của Đức Phật. Điều này trong thời điểm này hay trong những thời điểm khác, ở Việt Nam hay một số quốc gia trên thế giới, đã từng có những quan niệm sai lầm của một số người khi đặt bút viết về giáo lý của Phật hay về những vấn đề liên quan đến Phật học, đó là chưa kể những người cố tình bóp méo hay gán ép cho Đức Phậtgiáo lý của Ngài, với ý đồ nào đó (?). Ở đây chúng ta không phải biện minh cho những kiến giải hơn thua phải quấy của những người con Phật, mà chúng ta xác định tinh thần Phật dạy như là quan niệm sống thực nghiệm giúp con người trong thời đại của Ngài và ngay trong thời điểm hôm nay và mai sau. Giáo lý đó là một chân lý vượt ra ngoài phạm trù của thời gian và cả không gian, và những lời dạy của Đức Phật thực sự có ích cho con người. Nền giáo lý của Đức Phật không phải chỉ dành riêng cho người xuất gia hay tại gia tu theo Phật, mà đó là của mọi người muốn ứng dụng nó vào đời sống tâm linh, mà không có sự phân biệt quy y hay chưa quy y theo Phật.

Tất cả mọi người không phải ai cũng bỏ cuộc đời, đi vào chùa hay tu viện xa lánh cuộc đời, ẩn dật chốn nào đó của núi rừng, am cốc. Đạo Phật dù có thuần khiết cao cả đến đâu cũng sẽ trở thành vô dụng đối với mọi người vì không "đại chúng hóa" vì họ không thể áp dụng đựơc trong đời sống hàng ngày. Trái lại khi mọi người hiểu đúng tinh thần Phật dạy, xem như là một triết lý sống, đem áp dụng vào cuộc đời mà không phải xa lánh cuộc đời thì đó mới thực sự là một tôn giáolợi ích thiết thực. Như vậy rõ ràng Đức Phậtgiáo lý của Ngài không bao giờ khuôn biệt trong một mô thức bắt buộc nào mà chỉ khuyên mọi người nên áp dụng tu tập thực hành Pháp trong điều kiệnhoàn cảnh mà mình đang sống, không khuyến khích con người chạy đi tìm cầu, điều kiện khác mà con người chưa có thể thực hiện được. Trong kinh Phật có nhiều câu hỏi của cư sĩ Vacchagotta được đặt ra: "Bạch Đức Thế Tôn, có người nam và nữ nào đệ tử của Phật sống đời sống thế tục thực hành giáo lý của Ngài mà có hiệu quả, mà đạt được những trạng thái tâm linh cao siêu không ?". Đức Phật đã khẳng định không phải 100 hay 500 mà còn nhiều hơn thế nữa. Qua đó cho chúng ta một quan niệm về Đức Phậtgiáo lý của Ngài.

thời đại ngày nay khi kinh tế thị trường như là một yếu tính của thời đại và nó được xem như một nhu cầu phát triển xã hội loài người, vậy giáo lý của Phật dạy có ảnh hưởng gì không trong sự tu tập? Chúng ta hãy xem một đoạn kinh Đức Phật có đề cập đến nền kinh tế: "Một hôm Đức Phật bảo ông Cấp Cô Độc - một thương gia danh tiếng: "Này cư sĩ, sống thường nhật có 4 thứ hạnh phúc:

1/ Sở hữu lạc : sự thọ hưởng bảo đảm về kinh tế hay tài sản kiếm được bằng phương tiện chính đáng.

2/ Thọ dụng lạc : Tiêu dùng tài sản đó một cách rộng rãi,cho chính mình, cho gia đình bà con, bè bạn, trong những việc công đức.

3/ Vô trái lạc : Không bị nợ nần đeo bám.

4/ Vô tội lạc : Sống một đời sống trong sạch, không phạm những điều ác trong công việc mưu sinh ngoài xã hội".

Qua những điều nêu trên cho chúng ta thấy Đức Phật đã có những cái nhìn thấu đáo về nền kinh tế trong thời kỳ của Ngài khi dạy một cư sĩ sống làm sao để có hạnh phúc, Ngài không cho rằng chỉ thuần có đời sống tinh thần; mà phải làm sao quân bình giữa đời sống vật chấttinh thần. Một mặt Phật giáo khuyến khích con người cần có sự tiến bộ phát triển về vật chất, mặt khác Ngài cũng nhấn mạnh đến sự phát triển về đạo đứctâm linh để có một xã hội hoà bình an lạc.

Ngày nay con người sống trong hận thù, sợ hãi lo âu và khủng hoảng, nghi ngờ đố kỵ nhau một cách căng thẳng. Nền công nghệ KHKT phát triển một cách chóng cả mặt mày. Đứng trước sự sợ hãi do chính mình tạo ra, bao nhiêu thiên tai thảm họa đang đè nặng lên vai con người trong thiên niên kỷ mới phải khắc phục; thông điệp của Đức Phật dù cách đây hơn 25 thế kỷ, nhưng khi nhìn vô số lời dạy còn lưu lại cho đến hôm nay, mọi người con Phật đều có thể xem như là kim chỉ nam trong việc xây dựng đời sống cộng đồng. Nơi tiềm tàng trong nền giáo lý và nhân cách của Phật mọi người có thể rút ra một bài học ứng xử giúp con người tìm về chính mình, làm chủ vận mệnh tương lai do mình tạo ra. Đó là tình thương, khoan hồng, rộng lượng, thông cảm, tôn trọng đối với mọi sự sống hãy vứt bỏ đi lòng ích kỷ, hận thùbạo động... Nhân loại đang sống trong bản lề của một thiên niên kỷ mới cũng sống và mong ước thế giới không còn hận thù khổ đau mà chúng ta hằng mong muốn: "Tâm tịnh quốc độ tịnh". Trước khi nhập Niết Bàn Đức Phật đã ân cần tuyên bố: "Bất luận Chơn Lý nào mà Như Lai đã truyền dạy, các người hãy thực hành một cách khéo léo, trau dồi phát triển đầy đủ, để đời sống thiêng liêng được duy trì trường tồn vĩnh cửu, vì tình thương chúng sanh, vì sự tốt đẹphạnh phúc của nhiều người...". Những lời này là thông điệp muôn đời của tình thương yêu nhân loại gởi đến cho toàn thể mọi người khắp hành tinh đang thực hiện lời dạy của Ngài, hãy vì hạnh phúc của nhiều người, hãy xây dựng hạnh phúc cho mình cho người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 46)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 410)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 680)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 641)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 601)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 546)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 575)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 994)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1751)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 972)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1522)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1399)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant