Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold

09 Tháng Tư 201200:00(Xem: 23015)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold

ÐỨC PHẬT ÐẢN SANH
Qua thi phẩm ÁNH SÁNG Á CHÂU
{
Light of Asia}
của Sir Edwin Arnold


 Trần Phương Lan dịchchú giải

---oOo---

Lời người dịch : Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy:” Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh,vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại. Người ấy là ai ? Ðó là đức Như Lai, bậc A-la-Hán, Chánh Ðẳng Giác” ( Kinh Tăng Chi I )

Ðức Phật đã xuất hiện ở đời dưới hình thức một vị thái tử đầy đủ hảo tướng, tài đức vẹn toàn. Khi trưởng thành, Ngài cũng lập gia đình như một người thường, nhưng sau đó, Ngài muốn tìm giải pháp cho vấn đề sanh tử của đời người, nên Ngài đã làm đại sự xuất thế và đã chứng ngộ chân lý. Ngài trở thành bậc Vô Thượng Giác Ngộ và đem giáo lý của Ngài soi sáng trí tuệ của những ai muốn nghe pháp để tận diệt khổ đau, đạt đến chân hạnh phúc, Niết Bàn bất tử.

Suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, giáo lý của Ðức Phật đã đem lại biết bao niềm hạnh phúc cho các dân tộc Châu Á và dần dần được truyền bá rộng khắp năm châu, vì thế Ðức Phật đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao công trình văn học nghệ thuật, nghiên cứu, khảo cổ… từ ngàn xưa đến nay

Vào cuối thế kỷ thứ 19, sự xuất hiện của thi phẩm Ánh Sáng Á Châu hay sự Xuất Thế Vĩ Ðại (The Light of Asia or The Great Renunciation) của Sir Edwin Arnold (1832-1904), là một hiện tượng văn học Anh đặc biệt mang đậm dấu ấn Phật giáo đã gây sự chú ý của giới trí thức đương thời. Thi sĩ này vốn là một nhà quý tộc xuất thân từ trường Ðại học King’s College thuộc Viện Ðại Học Cambridge và sau đó học ở Viện Ðại Học Oxford Luân Ðôn, là những lò đào tạo trí thức cho giới thượng lưu của cả Âu Châu ngay từ thế kỷ XII. Nhân chuyến công du sang Ấn Ðộ để làm hiệu trưởng trường Ðại học Poona College ở Bombay (1856 - 1861), vị ấy đã đến với đạo Phật và được cảm hoá vào đạo. Kết quả của thời kỳ Ðông du ấy đã đạt đỉnh cao nhất với thi phẩm The Light of Asia và nhiều dịch phẩm từ nguyên tác Sanskrit. 

Ðặc biệt thi phẩm The Light of Asia được xây dựng quanh chủ đề cuộc đời Ðức Phật từ khi Ngài từ cung trời Tusita (Ðâu-suất-đà) nhập mẫu thai Hoàng hậu Màyà, rồi sinh ra làm thái tử sống đời vương giả ở hoàng cung cho đến ngày Ngài làm đại sự xuất thế tầm cầu chân hạnh phúc để cứu độ nhân loại. Sáu năm khổ hạnh và trận chiến đấu cuối cùng đầy khốc liệt của đạo sĩ Gotama trước sự tấn công như vũ bão của ma vươngma quân quanh cội Bồ đề đã diễn ra vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa đầy sáng tạo của thi sĩ cho đến khi Ngài chứng đắc tam minhliễu ngộduyên khởi của vạn pháp. Ngài trở thành bậc chiến thắng trên chiến trường lúc bình minh vừa xuất hiện ở phương Ðông, ánh sao mai mờ dần nhường chỗ cho ánh mặt trời ló dạng trước niềm hân hoan của chư Thiênloài người trên thế giới.

Mặc dù là một người Tây phương sống cách xa thời đức Phật gần hai ngàn năm trăm năm, tác giả tự nhận mình đã thay lời một Phật tử Ấn Ðộ diễn tả lòng ngưỡng mộ thành tín sâu xa của mình đối với cuộc đời kỳ diệu của đức Phậtsự nghiệp thuyết pháp độ sanh của ngài qua thi phẩm trữ tình này, làm cho nó có một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với các tầng lớp trí thức Tây phương và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ Tây phương, nên đã góp công rất lớn vào sứ mạng truyền bá đạo Phật ở Âu Châu và đặc biệt ở Anh từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay

Thi phẩm chấm dứt với lời phát nguyện quy y Tam Bảo của chính tác giả như bất kỳ một đệ tử thuần thành nào trước Ðức Thế Tôn đã đem lại ánh sáng của trí tuệtừ bi để cứu khổ muôn loài chúng sanh trên thế gian

Sau đây là trích đoạn sự kiện đức Phật đản sanh trong phần mở đầu thi phẩm này.

 

Chương một 

Kinh của Ngài, Phật Thế Tôn cứu độ

Sĩ-đạt-ta là Thái tử giáng trần,

Trong đất, trời, địa ngục chẳng ai bằng

Bậc Tối thắng, Ðại từ bi, Trí tuệ

Ðược tất cả muôn loài đồng kính lễ

Bậc Ðạo Sư dạy Giáo pháp Niết bàn.

Như vầy Ngài tái thế cứu nhân gian:

Dưới cõi tối cao, Tứ Thiên Vương (1) ngự

Trị thế gian, và dưới đó là miền

Cao nhưng gần, nơi các vị thánh hiền

Sẽ sống lại ba mươi ngàn năm tới

Chầu Ðức Phật, trên trời cao chờ đợi

nhân gian, hiện năm tướng giáng sanh,

Nên Chư Thiên hiểu biết các điềm lành

Ðồng bảo:” Phật tái sanh giúp thế giới”.

“- Phải, ta đi giúp trần gian, Ngài nói,

Ðời cuối cùng qua bao kiếp tử sanh

Ðến với ta và kẻ học pháp lành

Ta sẽ xuống giữa Thích-ca (2) bộ tộc

Dưới sườn núi miền nam Hy-mã-lạp (3)

Có thần dân mộ đạo với minh quân”.

Một đêm kia, chánh hậu Tịnh Phạn Vương (4)

Bà Mà-Yà (5), ngủ yên bên chúa thượng,

Thấy mộng lạ: sao từ trời hiện xuống

Sáu hào quang màu hồng ngọc huy hoàng

Từ sao kia là một đại tượng vương

Sáu ngà (6) trắng như sữa thần tham dục (7)

Giữa cõi không, chiếu vào bà lập tức

Nhập mẫu thai bên phải. Tỉnh gìấc mơ

Diễm phúc siêu phàm tràn ngập long bà

Và nửa cõi đất, hào quang mầu nhiệm.

Ngay trước ban mai, hào quang xuất hiện:

Các đồi cây lay động, sóng ngàn trùng

Lặng yên dần, hoa nở rộ tưng bừng

Như giữa ngọ, tận các miền ngục tối

Niềm hân hoan của bà hoàng chiếu dọi.

Khi mặt trời ấm áp nhuộm màu vàng

Các khu rừng, xuyên tận các đại dương.

Một tiếng thì thầm dịu dàng vang vọng

“ Hỡi các người chết kia, nay phải sống,

Dậy mà nghe, hy vọng: Phật–đà sanh!

Ở Lâm-tì-ni (8) vạn vật an bình

Ðang trải rộng, tâm thế gian náo nức

Làn gió mát, lạ, lướt qua biển, đất.

Khi bình minh ló dạng, chuyện đem trình

Những người đoán mộng tâu:”Chính điềm lành!

Sao con Cua cùng mặt trời tụ hội,

Hoàng hậu sanh một hoàng nam nối dõi,

Bậc Thánh hiền đại tuệ lợi quần sanh

Sẽ giải thoát loài người khỏi vô minh

Hoặc chiếu cố thế gian và ngự trị (9)

*

Theo cách này, đức Phật–đà giáng thế:

Ðúng giữa trưa, Hoàng hậu đứng lâm bồn

Dưới Sa-la (10) đại thọ trong khu vườn,

Thân hùng vĩ, thẳng cao như ngọn tháp,

Dưới tàng lá sum sê, hoa thơm ngát,

Cùng muôn loài, khi biết đã đến thời,

Cây khôn liền uốn nhánh lá cao vời

Xuống đất để làm mái che Hoàng hậu.

Mặt đất bỗng hiện đủ ngàn hoa báu

Trải tọa sàng. Chuẩn bị tắm hoàng nam

Ðá kế gần phun nước suối trong nguồn (11)

Pha lê chảy, mẫu hoàng ôm con trẻ

Thật bình an. Ngài vẹn toàn thân thể,

Ba mươi hai tướng tốt báo điềm lành (12)

Tin mừng vui vang đến tận cung đình.

Nhưng khi chúng đem kiệu hoa đến đón

Ngài hồi cung, đám người khiêng đôi cáng

Hoá ra là bốn vị Ðại Thiên Vương

Từ núi Tu-di (13) canh giữ bốn phương:

Thần phương Ðông có biệt danh Trì Quốc (14)

Ðoàn tùy tùng khoác xiêm y bằng bạc,

mang theo những khiên mộc ngọc trai.

Thần phương Nam,Tăng Trưởng chính tên ngài,

Ðoàn kỵ mã, Cưu-bàn-trà đại quỷ,

Cỡi ngựa xanh, mang khiên thanh ngọc quý,

Thần phương Tây là Quảng Mục Thiên Vương (16),

Ðoàn quân hầu là các vị Long thần (17)

Cỡi tuấn mã màu máu đào rực rỡ,

Mang các tấm khiên bằng san hô đỏ.

Ða Văn là chúa tể ở Bắc phương (18)

Ðoàn Dạ-xoa hộ tống mặc toàn vàng (19)

Cỡi hoàng thố, mang khiên vàng chói sáng.

Các thiên thần vẫn tàng hình hiện xuống

Khiêng cáng và mặc y phục thường dân,

Song thật ra là các đại lực thần

Cùng rảo bước cùng phàm nhân hôm đó,

loài người không làm sao biết rõ:

Trên cõi trời tràn ngập nỗi hân hoan

Cũng chỉ vì hạnh phúc của trần gian

Khi biết Phật Thế Tôn vừa giáng thế.

Việc này Tịnh Phạn Vương chưa hiểu nghĩa,

Các điềm kia làm chúa thượng lo âu,

Cho đến khi các người giải mộng tâu

Hoàng tử sẽ cầm quyền khắp cõi thế,

Là một Chuyển luân vương (20) lên ngự trị,

Một ngàn năm mới chỉ có một lần,

Ngài chủ quyền luôn bảy thứ bảo trân (21)

Bánh xe báu, ngọc thần kỳ, tuấn mã,

Ngựa báu sẽ dẫm lên ngàn mây gíó,

Một tượng vương sắc như tuyết trắng ngần

Ðược sinh ra để chở vị Thánh quân,

Ðại thần giỏi và tướng quân vô địch,

Một hoàng hậu với dung nhan toàn bích,

Dáng yêu kiều hơn thần nữ Rạng đông (22)

bảy báu kia cùng vị Ðông cung,

Vua ra lệnh kinh thành khai đại lễ:

Mọi lối đi được quét chùi sạch sẽ,

Nước hoa hồng được rảy khắp trên đường,

Cây treo đèn, cờ xí rợp mười phương

Trong lúc đó, từng đám đông vui vẻ

Trố mắt nhìn người múa gươm oai vệ,

Bọn làm trò, nhữ rắn, bọn leo dây,

Bọn nhào lộn và vũ nữ từng bầy

Váy lấp lánh với chuông rung thánh thót

Như cười nhẹ quanh đôi chân nhảy nhót,

Bọn mang mặt nạ da báo, hươu, nai,

Bọn đá chim, luyện cọp và quăng dây,

Bọn đánh trống và những bầy đô vật,

Làm mọi người thật hân hoan hạnh phúc.

Còn thương nhân tấp nập tự đằng xa,

Nghe tin đản sanh đem tặng lắm quà

Trong mâm vàng, đầy khăn quàng, ngọc biếc,

Cây hương liệu, sắc trời chiều tơ dệt

Thật mỏng manh dẫu xếp mười hai tầng

Cũng không thể che khuôn mặt thẹn thùng,

Những chiếc váy được thêu đầy ngọc trắng,

Gỗ đàn hương từ thị thành phụ cận

Cung kính chào “ Hoàng tử Sĩ-đạt-ta”(23),

“ Toàn thành công” họ nói đúng tên kia.

Giữa khách lạ từ phương xa từng đám,

Một bậc Thánh tóc râu màu tro xám,

A-tư-đà (24), người có một đôi tai

Dài chấm đất, nghe âm hưởng từ trời,

Khi cầu nguyện dưới gốc cây sung mãn (25).

Các Thiên thần đồng ca bài “Phật đản”,

Người tinh thông kiến thức bởi tu thiền,

Người đến gần, dáng điệu thật trang nghiêm,

Vua đảnh lễ và mẫu hoàng ra lệnh

Ðưa hoàng nhi đặt dưới chân bậc Thánh.

Nhưng khi nhìn Thái tử, lão Hiền nhân

Thốt tiếng kêu: “Ðừng làm vậy, Nương nương!”

Và đặt khuôn mặt già nua lập tức

Tại chỗ ấy, tám lần người chạm đất,

Nói:” Ta xin đảnh lễ đấng Hài đồng!”

Ngài thật là vị cứu thế chính tông!

Với hồng quang (26), lòng bàn chân có ấn (27),

Cuộn lông mềm, cuốn theo hình chữ Vạn (28),

Ba mươi hai tướng tốt của Thánh hiền,

Và tám mươi tướng phụ đã hiển nhiên (29)

Ngài quả thật chính là người Giác ngộ,

Ngài sẽ thuyết pháp lành và cứu độ

Những người nào được học pháp sau này,

Dù chẳng bao giờ ta được nghe Ngài,

Vì ta sắp phải lìa đời quá sớm,

Ta trước đây chỉ mong ngày số tận,

Tuy nhiên nay ta đã thấy được Ngài.

Phải biết rằng, tâu chúa thường ở đời,

Ðây chính Ðóa Hoa trên cây nhân loại,

Hằng vạn năm mới nở ra sáng chói,

Nhưng nở rồi, làm tràn ngập thế gian

Với hương thơm của trí tuệ siêu phàm,

Và mật ngọt của tấm lòng Từ ái,

Từ gốc rễ của Hoàng gia vĩ đại

Một đóa Hoa sen Thiên giới nở ra,

Ôi! Muôn vàn hạnh phúc hỡi Hoàng gia!

Tuy nhiên cũng chẳng hoàn toàn ân phước,

Vì một lưỡi gươm kia đành xuyên suốt

Cõi lòng bà, do Thái tử ra đời,

Trong lúc bà, hỡi Chánh hậu tuyệt vời,

Ðược Thiên thầnloài người yêu quý

Vì đã sanh bậc Thánh nhân kỳ vĩ,

Nên từ đây bà quá đỗi thiêng liêng

Không thể nào còn chịu lắm ưu phiền,

cuộc đời này chính là khổ hải,

Do vậy trong vòng bảy ngày trở lại,

Lệnh bà không đau đớn dứt sầu bi”.

Việc xảy ra: ngày thứ bảy đêm kia,

Hoàng hậu Màyà mỉm cười say ngủ,

Và từ đấy, đức bà không đi nữa,

Thật hài lòng lên cõi Ðâu-suất đà (30)

Vô số Thiên nhân sùng bái đức bà,

Và hầu hạ Mẫu hoàng thành Thiên nữ.

Còn Hoàng gia tìm mẹ nuôi Hoàng tử,

Ðó chính là Di mẫu Go-ta-mì (31),

Bầu sữa thanh cao nuôi nấng Ấu-nhi,

Ðôi môi ấy sẽ cứu toàn thế giới.

Như vậy theo truyền thuyết, tất cả chư Thiênloài người đều hân hoan trước sự ra đời của Ðức Phật, cho nên bốn vị Thiên Vương đã đích thân đem đoàn tùy tùng của mình xuống vườn Lâm-tì-ni để khiêng kiệu hoa hộ tống Hoàng hậu và Thái tử hài nhi về kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) cùng với đoàn người hầu cận vua, và bày tỏ sự hân hoan trước niềm hạnh phúc lớn lao của loài người hôm ấy.

  

CHÚ GIẢI :

 

(1) Tứ-Thiên-Vương (Catumahàrajika): Bốn vị Thiên vươngcõi trời thấp nhất trên đỉnh núi Simeru (Tu-di).

(2) Sakya: Tên bộ tộc thuộc quyền cai trị của vua Suddodana.

(3) Himalaya: Tuyết sơn, vùng đồi núi cao nhất thế giới ở miền Bắc Ấn Ðộ và Nepal ngày nay.

(4) Suddodana (Tịnh Phạn Vương): Vị vua cai trị bộ tộc Thích-ca thời bấy giờ.

(5) Màyà (Ma-da): tên bà chánh hậu của vua.

(6) Voi trắng sáu ngà hay Hào quang sáu sắc: là biểu tượng của Ðức Phật theo truyền thống kinh điển.

(7) Kàmaduk: Tên của vị thần tham dục theo truyền thuyết cổ Ấn Ðộ.

(8) Lumbini: Tên một hoa viên nằm trên đường đi của hoiàng hậu lúc bà sắp lâm bồn.

(9) Những người tiên tri đoán mộng giải thích rằng khi sao con Cua hội họp với mặt trời, hoàng hậu sẽ sinh một hoàng nam là bậc thánh hiền đại tuệ có thể ngự trị toàn thế giới hoặc sẽ xuất gia thành đạochứng quả Giác ngộgiải thoát loài người khỏi vô minh.

(10) Sala: cây hoa cao lớn ở vườn Lumbini, theo truyền thuyết, là nơi hoàng hậu đứng và sanh Thái tử.

(11) Hai giòng nước nóng và lạnh từ trời tuôn xuống để tắm hoàng hậu và Thái tử hài nhi theo truyền thuyết.

(12) Thái tử hài nhi có đủ ba mươi hai tướng tốt lành của một bậc Ðại nhân theo khoa xem tướng ở cổ Ấn Ðộ.

(13) Bốn vị Ðại Thiên Vương bảo hộ thế giới ngự trên đỉnh Tu-di là trung tâm của vũ trụ theo vũ trụ quan cổ Ấn Ðộ.

(14) Dhatarattha (Trì Quốc): Vị Thiên vương canh giữ phương Ðông, có đoàn tuỳ tùng là các thần Gandhabba (Nhạc thần).

(15) Virulha (Tăng Trưởng): Vị Thiên vương canh giữ phương Nam, có đoàn tuỳ tùng là các thần Kumbhanda (Cưu-bàn-trà).

(16) và (17) Virupakkha (Quảng Mục): Vị Thiên vương canh giữ phương Tây, có đoàn tuỳ tùng là các thần Nàga (Long thần hay Xà thần).

(18) và (19) Kurera (Ða Văn): Vị Thiên vương canh giữ phương Bắc, có đoàn tuỳ tùng là các thần Yakkha (Thần Dạ-xoa, Ðại lực).

(20) Chuyển luân vương (Cakkavatti): Vị vua cai trị toàn cầu bằng chánh pháp.

(21) Vua có đầy đủ bảy báu vật: bánh xe báu, ngọc báu, ngựa báu và nữ báu.

(22) Rạng đông: tên của một nữ thần trong thần thoại cổ Ấn độ.

(23) Siddhattha: tên của Thái tử có nghĩa là Toàn thành công, Toại nguyện.

(24) Asita: tên vị thánh ở vùng Tuyết sơn đã đắc các thắng trí (Abhinna: lục thông) và tám thiền chứng (jhàna), nhờ thiên nhĩ nghe tin các Thiên thần ca ngợi Ðức Phật đản sanh, nên đã đến thăm Ngài tại hoàng cungđảnh lễ Ngài khi thấy các tướng tốt của Ngài.

(25) Peepul hay pipala: một loại cây sung ở Ấn độ.

(26) Hào quang màu hồng ngọc.

(27) Lòng bàn chân có dấu bánh xe.

(28) Lông cuốn theo hình chữ vạn (Svastika) là một tướng tốt trong 32 tướng chính.

(29) 80 tướng phụ của bậc Ðại nhân theo khoa tướng số ở Ấn độ, có thể trở thành một vị Chuyển luân vương hay một bậc Giác ngộ để cứu đời.

(30) Theo truyền thống kinh điển, Hoàng hậu Màyà từ trần và tái sanh lên cõi trời Ðâu-suất-đà (Tusita), chứ không phải cõi trời ba mươi ba (Tavatimsa) như trong thi phẩm này.

(31) Thứ phi Mahàpajipati Gotamì, em gái của chánh hậu Màyà, trở thành mẹ nuôi Thái tử từ đó và giao hài nhi mới sanh của bà là Hoàng tử Nanda cho một nhũ mẫu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18422)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 14411)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 8759)
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo...
(Xem: 8834)
Phẩm Quán Tứ đế của Trung luận, từ chỗ duyên khởi tức là không, cũng là giả danh về sau, tiếp theo nói: cũng là trung đạo.
(Xem: 8136)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận và Du-già hành tông hay trường phái Duy thức...
(Xem: 8949)
Không là pháp quán chung của Phật giáo, nhưng pháp quán của các nhà Trung Quán không giống với pháp quán của các tông phái khác.
(Xem: 14077)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 8413)
Niệm tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng, chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm...
(Xem: 15199)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13031)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 7761)
"Các thầy Tỷ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng, tôn kính tịnh giới, như người mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc..."
(Xem: 16532)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15411)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 8939)
Chấp nhận một hình thức Phật giáo rồi dấn thân bằng thực nghiệm, hành giả không cần phải dành quá nhiều công sức cho những vấn đề lý thuyết và những mục tiêu lý tưởng của các truyền thống khác nhau.
(Xem: 7890)
Pháp môn Tịnh độ được sáng lậptu hành dựa trên tư tưởng “Yếm ly Ta bà, hân cầu Cực Lạc”. Song vì sao phải yếm ly Ta bà và lại hân cầu Cực Lạc?
(Xem: 7047)
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị".
(Xem: 11210)
Đạo Phậtđạo nhân quả (nhân nào quả nấy) trên cơ sở lấy “Tâm” làm gốc và được ứng dụng vào trong cuộc sống.
(Xem: 14192)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10394)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20353)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 8728)
"Các người phải siêng năng tu tập các điều thiện, nhờ tu tập điều thiện mà được mạng sống lâu dài, nhan sắc thắm tươi, sống yên ổn, vui vẻ, của cải dồi dào, uy tín đầy đủ"
(Xem: 9214)
Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành...
(Xem: 23969)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12558)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 7746)
Giải quyết vấn đề thoát khổ, Đạo Phật lấy tâm thức của con người làm trọng tâm, bất cứ hệ tư tưởng Phật giáo nào nếu tách rời tâm thức của con người thì Phật giáo không còn đất đứng.
(Xem: 16136)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle...
(Xem: 15499)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 8681)
Indriya có nghĩa là căn, gốc, khả năng, làm chủ, cốt yếu... Bala là lực, là sức mạnh. Vậy ngũ căn là 5 trạng thái tâm căn bản, 5 yếu tố tâm lý căn bản có khả năng kiểm soát tâm, làm chủ tâm.
(Xem: 7603)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được phước, làm tội chịu tội.
(Xem: 14484)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 9230)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu.
(Xem: 15417)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 15044)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16541)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 13317)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 15234)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 7758)
Tất cả đều được tiếp nối dưới một hình thức này hay một hình thức khác. Đám mây luân hồi ra thành cơn mưa và cơn mưa luân hồi ra thành ra nước trà.
(Xem: 7450)
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễchúng ta đang thực hiện ngày hôm nay, Ngài cũng không vì vấn đề nghi thứcnghi lễ mà khuyến khích dân chúng...
(Xem: 7301)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu.
(Xem: 8971)
"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật GiáoChánh Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí huệ và được giảm bớt tai ương."
(Xem: 13899)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 7983)
Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của Phật giáo...
(Xem: 7805)
Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn...
(Xem: 15708)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10200)
Chúng ta luôn bị bất an, lòng lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sinh mạng, quyền lợi, địa vị, vợ con, tiếng tăm, của cải… của mình bị thương tổn hay bị đe dọa.
(Xem: 7639)
Đạo Phật chủ trương trong hiện tại phải sống giải thoát cho chính mình và giúp đỡ mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau để đạt được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
(Xem: 7447)
Trung-quán-luận hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để giảng Giáo lý của đức Phật.
(Xem: 12713)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 7796)
Các thí dụ trình bày trong bản kinh này đều gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống con nguời.
(Xem: 8045)
Bài chuyển ngữ dưới đây sẽ tiếp tục đưa chúng ta bước vào một thế giới khác của vấn đề này liên quan đến các hiểu biết khoa học tân tiến ngày nay.
(Xem: 13915)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 7241)
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS / WHO) định nghĩa sức khoẻ là một "thể dạng an vui toàn diện, từ thể xác đến tâm thần và cả cuộc sống trong xã hội
(Xem: 9116)
Trong Thiện kiến tì-bà-sa cũng có thuyết này, nhưng vì độ người nữ xuất gia nên tổn chính pháp năm trăm năm.
(Xem: 9600)
“Sắc tức là không, không tức là sắc” được trích ra từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã được tinh giản, công thức hóa và xem như một thành ngữ.
(Xem: 13027)
Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người.
(Xem: 7530)
Nếu không có ngã, sự liên quan giữa một hành nghiệp và kết quả của nó là điều không thể có, vì nếu tác giả của một hành nghiệp chết, ai sẽ có kết quả?
(Xem: 10062)
Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác... Nguyên tác: Lạt Ma Gendyn Rinpoche; Liên Hoa dịch Việt
(Xem: 7143)
Sau khi Đức Phật diệt độ, Tôn giả Maha Kassapa đã triệu tập 500 vị A-la-hán vân tập tại thành Rājagaha để kiết tập kinh điển... Chúc Phú
(Xem: 30802)
Tăng đoàn bắt đầu hoạt động rộng rãi và có ảnh hưởng kể từ khi Phật niết bàn... Thích Nữ Trí Nguyệt dịch
(Xem: 21846)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant