Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold

09 Tháng Tư 201200:00(Xem: 22994)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold

ÐỨC PHẬT ÐẢN SANH
Qua thi phẩm ÁNH SÁNG Á CHÂU
{
Light of Asia}
của Sir Edwin Arnold


 Trần Phương Lan dịchchú giải

---oOo---

Lời người dịch : Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy:” Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh,vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại. Người ấy là ai ? Ðó là đức Như Lai, bậc A-la-Hán, Chánh Ðẳng Giác” ( Kinh Tăng Chi I )

Ðức Phật đã xuất hiện ở đời dưới hình thức một vị thái tử đầy đủ hảo tướng, tài đức vẹn toàn. Khi trưởng thành, Ngài cũng lập gia đình như một người thường, nhưng sau đó, Ngài muốn tìm giải pháp cho vấn đề sanh tử của đời người, nên Ngài đã làm đại sự xuất thế và đã chứng ngộ chân lý. Ngài trở thành bậc Vô Thượng Giác Ngộ và đem giáo lý của Ngài soi sáng trí tuệ của những ai muốn nghe pháp để tận diệt khổ đau, đạt đến chân hạnh phúc, Niết Bàn bất tử.

Suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, giáo lý của Ðức Phật đã đem lại biết bao niềm hạnh phúc cho các dân tộc Châu Á và dần dần được truyền bá rộng khắp năm châu, vì thế Ðức Phật đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao công trình văn học nghệ thuật, nghiên cứu, khảo cổ… từ ngàn xưa đến nay

Vào cuối thế kỷ thứ 19, sự xuất hiện của thi phẩm Ánh Sáng Á Châu hay sự Xuất Thế Vĩ Ðại (The Light of Asia or The Great Renunciation) của Sir Edwin Arnold (1832-1904), là một hiện tượng văn học Anh đặc biệt mang đậm dấu ấn Phật giáo đã gây sự chú ý của giới trí thức đương thời. Thi sĩ này vốn là một nhà quý tộc xuất thân từ trường Ðại học King’s College thuộc Viện Ðại Học Cambridge và sau đó học ở Viện Ðại Học Oxford Luân Ðôn, là những lò đào tạo trí thức cho giới thượng lưu của cả Âu Châu ngay từ thế kỷ XII. Nhân chuyến công du sang Ấn Ðộ để làm hiệu trưởng trường Ðại học Poona College ở Bombay (1856 - 1861), vị ấy đã đến với đạo Phật và được cảm hoá vào đạo. Kết quả của thời kỳ Ðông du ấy đã đạt đỉnh cao nhất với thi phẩm The Light of Asia và nhiều dịch phẩm từ nguyên tác Sanskrit. 

Ðặc biệt thi phẩm The Light of Asia được xây dựng quanh chủ đề cuộc đời Ðức Phật từ khi Ngài từ cung trời Tusita (Ðâu-suất-đà) nhập mẫu thai Hoàng hậu Màyà, rồi sinh ra làm thái tử sống đời vương giả ở hoàng cung cho đến ngày Ngài làm đại sự xuất thế tầm cầu chân hạnh phúc để cứu độ nhân loại. Sáu năm khổ hạnh và trận chiến đấu cuối cùng đầy khốc liệt của đạo sĩ Gotama trước sự tấn công như vũ bão của ma vươngma quân quanh cội Bồ đề đã diễn ra vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa đầy sáng tạo của thi sĩ cho đến khi Ngài chứng đắc tam minhliễu ngộduyên khởi của vạn pháp. Ngài trở thành bậc chiến thắng trên chiến trường lúc bình minh vừa xuất hiện ở phương Ðông, ánh sao mai mờ dần nhường chỗ cho ánh mặt trời ló dạng trước niềm hân hoan của chư Thiênloài người trên thế giới.

Mặc dù là một người Tây phương sống cách xa thời đức Phật gần hai ngàn năm trăm năm, tác giả tự nhận mình đã thay lời một Phật tử Ấn Ðộ diễn tả lòng ngưỡng mộ thành tín sâu xa của mình đối với cuộc đời kỳ diệu của đức Phậtsự nghiệp thuyết pháp độ sanh của ngài qua thi phẩm trữ tình này, làm cho nó có một sức hấp dẫn mãnh liệt đối với các tầng lớp trí thức Tây phương và đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ Tây phương, nên đã góp công rất lớn vào sứ mạng truyền bá đạo Phật ở Âu Châu và đặc biệt ở Anh từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay

Thi phẩm chấm dứt với lời phát nguyện quy y Tam Bảo của chính tác giả như bất kỳ một đệ tử thuần thành nào trước Ðức Thế Tôn đã đem lại ánh sáng của trí tuệtừ bi để cứu khổ muôn loài chúng sanh trên thế gian

Sau đây là trích đoạn sự kiện đức Phật đản sanh trong phần mở đầu thi phẩm này.

 

Chương một 

Kinh của Ngài, Phật Thế Tôn cứu độ

Sĩ-đạt-ta là Thái tử giáng trần,

Trong đất, trời, địa ngục chẳng ai bằng

Bậc Tối thắng, Ðại từ bi, Trí tuệ

Ðược tất cả muôn loài đồng kính lễ

Bậc Ðạo Sư dạy Giáo pháp Niết bàn.

Như vầy Ngài tái thế cứu nhân gian:

Dưới cõi tối cao, Tứ Thiên Vương (1) ngự

Trị thế gian, và dưới đó là miền

Cao nhưng gần, nơi các vị thánh hiền

Sẽ sống lại ba mươi ngàn năm tới

Chầu Ðức Phật, trên trời cao chờ đợi

nhân gian, hiện năm tướng giáng sanh,

Nên Chư Thiên hiểu biết các điềm lành

Ðồng bảo:” Phật tái sanh giúp thế giới”.

“- Phải, ta đi giúp trần gian, Ngài nói,

Ðời cuối cùng qua bao kiếp tử sanh

Ðến với ta và kẻ học pháp lành

Ta sẽ xuống giữa Thích-ca (2) bộ tộc

Dưới sườn núi miền nam Hy-mã-lạp (3)

Có thần dân mộ đạo với minh quân”.

Một đêm kia, chánh hậu Tịnh Phạn Vương (4)

Bà Mà-Yà (5), ngủ yên bên chúa thượng,

Thấy mộng lạ: sao từ trời hiện xuống

Sáu hào quang màu hồng ngọc huy hoàng

Từ sao kia là một đại tượng vương

Sáu ngà (6) trắng như sữa thần tham dục (7)

Giữa cõi không, chiếu vào bà lập tức

Nhập mẫu thai bên phải. Tỉnh gìấc mơ

Diễm phúc siêu phàm tràn ngập long bà

Và nửa cõi đất, hào quang mầu nhiệm.

Ngay trước ban mai, hào quang xuất hiện:

Các đồi cây lay động, sóng ngàn trùng

Lặng yên dần, hoa nở rộ tưng bừng

Như giữa ngọ, tận các miền ngục tối

Niềm hân hoan của bà hoàng chiếu dọi.

Khi mặt trời ấm áp nhuộm màu vàng

Các khu rừng, xuyên tận các đại dương.

Một tiếng thì thầm dịu dàng vang vọng

“ Hỡi các người chết kia, nay phải sống,

Dậy mà nghe, hy vọng: Phật–đà sanh!

Ở Lâm-tì-ni (8) vạn vật an bình

Ðang trải rộng, tâm thế gian náo nức

Làn gió mát, lạ, lướt qua biển, đất.

Khi bình minh ló dạng, chuyện đem trình

Những người đoán mộng tâu:”Chính điềm lành!

Sao con Cua cùng mặt trời tụ hội,

Hoàng hậu sanh một hoàng nam nối dõi,

Bậc Thánh hiền đại tuệ lợi quần sanh

Sẽ giải thoát loài người khỏi vô minh

Hoặc chiếu cố thế gian và ngự trị (9)

*

Theo cách này, đức Phật–đà giáng thế:

Ðúng giữa trưa, Hoàng hậu đứng lâm bồn

Dưới Sa-la (10) đại thọ trong khu vườn,

Thân hùng vĩ, thẳng cao như ngọn tháp,

Dưới tàng lá sum sê, hoa thơm ngát,

Cùng muôn loài, khi biết đã đến thời,

Cây khôn liền uốn nhánh lá cao vời

Xuống đất để làm mái che Hoàng hậu.

Mặt đất bỗng hiện đủ ngàn hoa báu

Trải tọa sàng. Chuẩn bị tắm hoàng nam

Ðá kế gần phun nước suối trong nguồn (11)

Pha lê chảy, mẫu hoàng ôm con trẻ

Thật bình an. Ngài vẹn toàn thân thể,

Ba mươi hai tướng tốt báo điềm lành (12)

Tin mừng vui vang đến tận cung đình.

Nhưng khi chúng đem kiệu hoa đến đón

Ngài hồi cung, đám người khiêng đôi cáng

Hoá ra là bốn vị Ðại Thiên Vương

Từ núi Tu-di (13) canh giữ bốn phương:

Thần phương Ðông có biệt danh Trì Quốc (14)

Ðoàn tùy tùng khoác xiêm y bằng bạc,

mang theo những khiên mộc ngọc trai.

Thần phương Nam,Tăng Trưởng chính tên ngài,

Ðoàn kỵ mã, Cưu-bàn-trà đại quỷ,

Cỡi ngựa xanh, mang khiên thanh ngọc quý,

Thần phương Tây là Quảng Mục Thiên Vương (16),

Ðoàn quân hầu là các vị Long thần (17)

Cỡi tuấn mã màu máu đào rực rỡ,

Mang các tấm khiên bằng san hô đỏ.

Ða Văn là chúa tể ở Bắc phương (18)

Ðoàn Dạ-xoa hộ tống mặc toàn vàng (19)

Cỡi hoàng thố, mang khiên vàng chói sáng.

Các thiên thần vẫn tàng hình hiện xuống

Khiêng cáng và mặc y phục thường dân,

Song thật ra là các đại lực thần

Cùng rảo bước cùng phàm nhân hôm đó,

loài người không làm sao biết rõ:

Trên cõi trời tràn ngập nỗi hân hoan

Cũng chỉ vì hạnh phúc của trần gian

Khi biết Phật Thế Tôn vừa giáng thế.

Việc này Tịnh Phạn Vương chưa hiểu nghĩa,

Các điềm kia làm chúa thượng lo âu,

Cho đến khi các người giải mộng tâu

Hoàng tử sẽ cầm quyền khắp cõi thế,

Là một Chuyển luân vương (20) lên ngự trị,

Một ngàn năm mới chỉ có một lần,

Ngài chủ quyền luôn bảy thứ bảo trân (21)

Bánh xe báu, ngọc thần kỳ, tuấn mã,

Ngựa báu sẽ dẫm lên ngàn mây gíó,

Một tượng vương sắc như tuyết trắng ngần

Ðược sinh ra để chở vị Thánh quân,

Ðại thần giỏi và tướng quân vô địch,

Một hoàng hậu với dung nhan toàn bích,

Dáng yêu kiều hơn thần nữ Rạng đông (22)

bảy báu kia cùng vị Ðông cung,

Vua ra lệnh kinh thành khai đại lễ:

Mọi lối đi được quét chùi sạch sẽ,

Nước hoa hồng được rảy khắp trên đường,

Cây treo đèn, cờ xí rợp mười phương

Trong lúc đó, từng đám đông vui vẻ

Trố mắt nhìn người múa gươm oai vệ,

Bọn làm trò, nhữ rắn, bọn leo dây,

Bọn nhào lộn và vũ nữ từng bầy

Váy lấp lánh với chuông rung thánh thót

Như cười nhẹ quanh đôi chân nhảy nhót,

Bọn mang mặt nạ da báo, hươu, nai,

Bọn đá chim, luyện cọp và quăng dây,

Bọn đánh trống và những bầy đô vật,

Làm mọi người thật hân hoan hạnh phúc.

Còn thương nhân tấp nập tự đằng xa,

Nghe tin đản sanh đem tặng lắm quà

Trong mâm vàng, đầy khăn quàng, ngọc biếc,

Cây hương liệu, sắc trời chiều tơ dệt

Thật mỏng manh dẫu xếp mười hai tầng

Cũng không thể che khuôn mặt thẹn thùng,

Những chiếc váy được thêu đầy ngọc trắng,

Gỗ đàn hương từ thị thành phụ cận

Cung kính chào “ Hoàng tử Sĩ-đạt-ta”(23),

“ Toàn thành công” họ nói đúng tên kia.

Giữa khách lạ từ phương xa từng đám,

Một bậc Thánh tóc râu màu tro xám,

A-tư-đà (24), người có một đôi tai

Dài chấm đất, nghe âm hưởng từ trời,

Khi cầu nguyện dưới gốc cây sung mãn (25).

Các Thiên thần đồng ca bài “Phật đản”,

Người tinh thông kiến thức bởi tu thiền,

Người đến gần, dáng điệu thật trang nghiêm,

Vua đảnh lễ và mẫu hoàng ra lệnh

Ðưa hoàng nhi đặt dưới chân bậc Thánh.

Nhưng khi nhìn Thái tử, lão Hiền nhân

Thốt tiếng kêu: “Ðừng làm vậy, Nương nương!”

Và đặt khuôn mặt già nua lập tức

Tại chỗ ấy, tám lần người chạm đất,

Nói:” Ta xin đảnh lễ đấng Hài đồng!”

Ngài thật là vị cứu thế chính tông!

Với hồng quang (26), lòng bàn chân có ấn (27),

Cuộn lông mềm, cuốn theo hình chữ Vạn (28),

Ba mươi hai tướng tốt của Thánh hiền,

Và tám mươi tướng phụ đã hiển nhiên (29)

Ngài quả thật chính là người Giác ngộ,

Ngài sẽ thuyết pháp lành và cứu độ

Những người nào được học pháp sau này,

Dù chẳng bao giờ ta được nghe Ngài,

Vì ta sắp phải lìa đời quá sớm,

Ta trước đây chỉ mong ngày số tận,

Tuy nhiên nay ta đã thấy được Ngài.

Phải biết rằng, tâu chúa thường ở đời,

Ðây chính Ðóa Hoa trên cây nhân loại,

Hằng vạn năm mới nở ra sáng chói,

Nhưng nở rồi, làm tràn ngập thế gian

Với hương thơm của trí tuệ siêu phàm,

Và mật ngọt của tấm lòng Từ ái,

Từ gốc rễ của Hoàng gia vĩ đại

Một đóa Hoa sen Thiên giới nở ra,

Ôi! Muôn vàn hạnh phúc hỡi Hoàng gia!

Tuy nhiên cũng chẳng hoàn toàn ân phước,

Vì một lưỡi gươm kia đành xuyên suốt

Cõi lòng bà, do Thái tử ra đời,

Trong lúc bà, hỡi Chánh hậu tuyệt vời,

Ðược Thiên thầnloài người yêu quý

Vì đã sanh bậc Thánh nhân kỳ vĩ,

Nên từ đây bà quá đỗi thiêng liêng

Không thể nào còn chịu lắm ưu phiền,

cuộc đời này chính là khổ hải,

Do vậy trong vòng bảy ngày trở lại,

Lệnh bà không đau đớn dứt sầu bi”.

Việc xảy ra: ngày thứ bảy đêm kia,

Hoàng hậu Màyà mỉm cười say ngủ,

Và từ đấy, đức bà không đi nữa,

Thật hài lòng lên cõi Ðâu-suất đà (30)

Vô số Thiên nhân sùng bái đức bà,

Và hầu hạ Mẫu hoàng thành Thiên nữ.

Còn Hoàng gia tìm mẹ nuôi Hoàng tử,

Ðó chính là Di mẫu Go-ta-mì (31),

Bầu sữa thanh cao nuôi nấng Ấu-nhi,

Ðôi môi ấy sẽ cứu toàn thế giới.

Như vậy theo truyền thuyết, tất cả chư Thiênloài người đều hân hoan trước sự ra đời của Ðức Phật, cho nên bốn vị Thiên Vương đã đích thân đem đoàn tùy tùng của mình xuống vườn Lâm-tì-ni để khiêng kiệu hoa hộ tống Hoàng hậu và Thái tử hài nhi về kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) cùng với đoàn người hầu cận vua, và bày tỏ sự hân hoan trước niềm hạnh phúc lớn lao của loài người hôm ấy.

  

CHÚ GIẢI :

 

(1) Tứ-Thiên-Vương (Catumahàrajika): Bốn vị Thiên vươngcõi trời thấp nhất trên đỉnh núi Simeru (Tu-di).

(2) Sakya: Tên bộ tộc thuộc quyền cai trị của vua Suddodana.

(3) Himalaya: Tuyết sơn, vùng đồi núi cao nhất thế giới ở miền Bắc Ấn Ðộ và Nepal ngày nay.

(4) Suddodana (Tịnh Phạn Vương): Vị vua cai trị bộ tộc Thích-ca thời bấy giờ.

(5) Màyà (Ma-da): tên bà chánh hậu của vua.

(6) Voi trắng sáu ngà hay Hào quang sáu sắc: là biểu tượng của Ðức Phật theo truyền thống kinh điển.

(7) Kàmaduk: Tên của vị thần tham dục theo truyền thuyết cổ Ấn Ðộ.

(8) Lumbini: Tên một hoa viên nằm trên đường đi của hoiàng hậu lúc bà sắp lâm bồn.

(9) Những người tiên tri đoán mộng giải thích rằng khi sao con Cua hội họp với mặt trời, hoàng hậu sẽ sinh một hoàng nam là bậc thánh hiền đại tuệ có thể ngự trị toàn thế giới hoặc sẽ xuất gia thành đạochứng quả Giác ngộgiải thoát loài người khỏi vô minh.

(10) Sala: cây hoa cao lớn ở vườn Lumbini, theo truyền thuyết, là nơi hoàng hậu đứng và sanh Thái tử.

(11) Hai giòng nước nóng và lạnh từ trời tuôn xuống để tắm hoàng hậu và Thái tử hài nhi theo truyền thuyết.

(12) Thái tử hài nhi có đủ ba mươi hai tướng tốt lành của một bậc Ðại nhân theo khoa xem tướng ở cổ Ấn Ðộ.

(13) Bốn vị Ðại Thiên Vương bảo hộ thế giới ngự trên đỉnh Tu-di là trung tâm của vũ trụ theo vũ trụ quan cổ Ấn Ðộ.

(14) Dhatarattha (Trì Quốc): Vị Thiên vương canh giữ phương Ðông, có đoàn tuỳ tùng là các thần Gandhabba (Nhạc thần).

(15) Virulha (Tăng Trưởng): Vị Thiên vương canh giữ phương Nam, có đoàn tuỳ tùng là các thần Kumbhanda (Cưu-bàn-trà).

(16) và (17) Virupakkha (Quảng Mục): Vị Thiên vương canh giữ phương Tây, có đoàn tuỳ tùng là các thần Nàga (Long thần hay Xà thần).

(18) và (19) Kurera (Ða Văn): Vị Thiên vương canh giữ phương Bắc, có đoàn tuỳ tùng là các thần Yakkha (Thần Dạ-xoa, Ðại lực).

(20) Chuyển luân vương (Cakkavatti): Vị vua cai trị toàn cầu bằng chánh pháp.

(21) Vua có đầy đủ bảy báu vật: bánh xe báu, ngọc báu, ngựa báu và nữ báu.

(22) Rạng đông: tên của một nữ thần trong thần thoại cổ Ấn độ.

(23) Siddhattha: tên của Thái tử có nghĩa là Toàn thành công, Toại nguyện.

(24) Asita: tên vị thánh ở vùng Tuyết sơn đã đắc các thắng trí (Abhinna: lục thông) và tám thiền chứng (jhàna), nhờ thiên nhĩ nghe tin các Thiên thần ca ngợi Ðức Phật đản sanh, nên đã đến thăm Ngài tại hoàng cungđảnh lễ Ngài khi thấy các tướng tốt của Ngài.

(25) Peepul hay pipala: một loại cây sung ở Ấn độ.

(26) Hào quang màu hồng ngọc.

(27) Lòng bàn chân có dấu bánh xe.

(28) Lông cuốn theo hình chữ vạn (Svastika) là một tướng tốt trong 32 tướng chính.

(29) 80 tướng phụ của bậc Ðại nhân theo khoa tướng số ở Ấn độ, có thể trở thành một vị Chuyển luân vương hay một bậc Giác ngộ để cứu đời.

(30) Theo truyền thống kinh điển, Hoàng hậu Màyà từ trần và tái sanh lên cõi trời Ðâu-suất-đà (Tusita), chứ không phải cõi trời ba mươi ba (Tavatimsa) như trong thi phẩm này.

(31) Thứ phi Mahàpajipati Gotamì, em gái của chánh hậu Màyà, trở thành mẹ nuôi Thái tử từ đó và giao hài nhi mới sanh của bà là Hoàng tử Nanda cho một nhũ mẫu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4983)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4369)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4660)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4703)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5860)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3301)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5261)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2932)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4136)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5283)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4263)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3323)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6361)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5331)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4629)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6239)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6109)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3895)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6035)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4643)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4795)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3390)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6277)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4945)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3545)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3474)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5670)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4244)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5993)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5238)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3670)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3759)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3707)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3531)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5365)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4012)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4362)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5824)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3129)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3068)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3860)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4857)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3572)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3046)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4572)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4720)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3436)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3994)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4726)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3569)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3605)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5138)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4159)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3292)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2996)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3039)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3112)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3109)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3476)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4004)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant