Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Thập Nhị Nhân Duyên

14 Tháng Tư 201200:00(Xem: 9492)
09. Thập Nhị Nhân Duyên
KHỔ ĐAU PHÁT SINH VÀ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO
Hoang Phong biên soạn và dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2012


THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

Lời giới thiệu của người dịch: 

Thập nhị nhân duyên là một chủ đề quen thuộc, thường được đề cập và bình giải trong nhiều sách, bài viết cũng như băng đĩa. Tuy nhiên chúng ta cũng thử tim hiểu xem Phật giáo Tây phương tiếp cận và giải thích khái niệm này như thế nào. 

Có thể người đọc cũng sẽ ngạc nhiên đôi chút trên phương diện thuật ngữ, lý do là các học giả Tây phương nói chung không nhất thiết dựa vào kính sách bằng Hán ngữ để bình giải và thông thường thì ngoài những tư liệu bằng tiếng Hán các tác giả Tây phương còn căn cứ vào các kinh sách bằng tiếng Phạn và tiếng Pali. Hơn nữa các học giả Tây phương lại được thừa hưởng một gia tài văn hóa lâu đời về triết học cũng như những hiểu biết cận đại về khoa học, do đó kinh sách dịch thuật của họ khá cởi mở, minh bạchchính xác, Trong khi đó kinh sách tiếng Việt lại chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ kinh sách Trung hoa đã được dịch thuật từ nhiều trăm năm cho đến hàng ngàn năm trước. 

Thập nhị nhân duyên trong kinh sách bằng ngôn ngữ Tây phương được dịch là Mười hai mối dây tương liên hay Mười hai mối dây lệ thuộc hoặc trói buộc. Gốc tiếng Phạn của Thập nhị nhân duyên là Dvadasanga pratityasamutpada hay còn gọi là Dvadasa nidana, nguyên nghĩa của các cụm từ này là mười hai mối dây tương tác, tương tạo hay tương liên. Riêng chữ pratityasamutpada còn có nghĩa là sự tạo tác lệ thuộc hay sự tạo tác do điều kiện mà có.  Người Tây phương dịch chữ pratityasamutpadainterdependance, thật hết sức đơn giảnchính xác, còn kinh sách gốc Hán thì dịch chữ này là Lý duyên khởi

Thí dụ trên đây cho thấy một số khác biệt về thuật ngữ giữa kinh sách Tây phương và kinh sách gốc Hán. Thật vậy, ngôn ngữ dùng để chuyển tải Đạo Pháp rất quan trọng. Nếu một ngôn ngữ có cấu trúc ngữ pháp minh bạch, có khả năng thích ứng với khoa học và triết học hiện đại thì sẽ có nhiều hy vọng mang Đạo Pháp đến gần với con người trong các xã hội ngày nay hơn.

Mặt khác, trên phương diện nội dung thì khái niệm về Thập nhị nhân duyên là một khái niệm khá khó để nắm bắt và thấu triệt, vì khái niệm này bao hàm khá nhiều hiện tượng liên quan đến cả hai thế giới vừa vật-chất và phi-vật-chất, liên đới với sự hiện hữu của con người cả trên phương diện thể xác lẫn tâm thần. Sự tổng kết hay tổng hợp ấy lại dựa vào thật nhiều quy luật khác nhau như nguyên nhân hậu quả, sự tương liên (pratityasamutpada - lý duyên khởi), sự tái sinh, hiện tượng vô thường, v.v... Thật ra thì mọi hiện tượng trong vũ trụ đều tùy theo cơ duyênbiến động không ngừng, không nhất thiết phải theo chiều dọc hay chiều ngang. Tuy nhiên Đức Phật đã chọn ra mười hai biến động trực tiếp nối kết nhau thành một vòng tròn để chỉ cho chúng ta nhìn thấy một cách cụ thể, trực tiếp và đơn giản về cách thức hiện hữu của chính chúng ta trong thế gian này. Mười hai chiếc khoen của sợi dây xích đó đang tác động để buộc chặt sự hiện hữu của chúng ta và kìm giữ chúng ta bất tận trong cõi ta bà.

Chu kỳ liên kết mười hai hiện tượng thường được cụ thể hóa bằng một bánh xe vẽ trên một tấm tranh gọi là Thăng-ka (thanka). Bánh xe đó mang tên là Bánh xe của sự hiện hữu hay Bánh xe luân hồi. Hình vẽ trên trên tấm Thăng-ka rất phức tạp vì bao hàm thật nhiều chi tiết. Ngoài tính cách thiêng liêng biểu hiện cho Đạo Pháp, tấm Thăng-ka còn có mục đích giúp người Phật tử nhìn vào đó để tìm hiểuhọc hỏi về Phật pháp mà không cần phải biết đọc, chỉ cần nghe giảng một lần là hiểu, nếu không nhớ hết thì nhìn vào những biểu tượng của tấm Thăng-ka sẽ nhớ lại ngay. Nếu có nhiều thì giờ thì có thể ngồi xem để chú tâm vào đấy mà chiêm nghiệm từng chi tiết một.

Phần thuyết giảng dưới đây là một bài lược dịch từ hai buổi phát sóng trên đài truyền hình France 2 của nước Pháp, thuộc chương trình hàng tuần về Phật giáo do Tổng hội Phật giáo Pháp phụ trách. Hai buổi phát sóng được tổ chức vào hai ngày chủ nhật 5 và 12 tháng 8, năm 2007. Người thuyết giảng là ông Pierre Arène, một khảo cứu gia chuyên ngành về Phật giáo thuộc Trung Tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học của Pháp (Centre National de la Recherche Scientifique - gọi tắt là CNRS), Ông đồng thời cũng vừa là khảo cứu gia và là thành viên ban giảng huấn của trường Collège de France, một cơ quan giáo dục và khảo cứu hàng đầu của nước Pháp, quy tụ các học giả, triết gia và khoa học gia lỗi lạc nhất trong nước. Hơn thế nữa ông còn giữ chức chủ tịch Ủy ban Nghiên cứu Phật Pháp của hệ thống tu viện do đại sư Tây tạng là Dagpo Rimpoché thiết lập tại Pháp và Âu châu. Vì thế thiết nghĩ những gì do ông thuyết giảng dưới đây là kết quả nghiên cứu rất khoa học và nghiêm chỉnh. (Hoang Phong

hoangphong-thapnhinhanduyen-01
Cô Aurélie Godefroy
hoangphong-thapnhinhanduyen-02
Ông Pierre Arène

Buổi phát sóng ngày 5 tháng 8 năm 2007

Cô Aurélie Godefroy : Hôm nay chúng ta sẽ trình bày về chủ đề « Mười hai mối dây tương liên », đó là những gì sẽ chi phối số phận của chúng ta trong kiếp sau. Mười hai mối dây tương liên là một trong những khái niệm đặc thù và quan trọng trong giáo lý nhà Phật, tuy nhiên muốn tìm hiểu thấu đáo và nắm vững sự liên tục của mười hai mối dây không phải là dễ. Vì lý do đó mà chúng tôi quyết định dành ra hai buổi phát sóng cho chủ đề này. Vai trò của mười hai mối dây tương liên là gì? Khái niệm đó muốn nói lên điều gì? Tại sao sự hiểu biết thấu đáo về mười hai mối dây tương liên lại có thể giúp ta tự giải thoát khỏi khổ đau? Ông Pierre Arène được mời đến nói chuyện hôm nay sẽ giải đáp cho chúng ta những thắc mắc vừa được nêu lên.

Xin chào ông Pierre Arène. Ông là khảo cứu gia thuộc Trung Tâm Quốc gia Khoa Học Pháp (CRNS), chuyên ngành về Phật Pháp, đồng thời ông cũng là khảo cứu gia của trường Collège de France, và hiện ông cũng giữ chức Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu của Trung tâm Phật giáo Tây tạng Dagpo Rimpoché. Để khởi đầu cho buổi phát sóng hôm nay, chúng tôi xin ông vui lòng giải thích cho chúng tôi các thuật ngữ liên quan đến mười hai mối dây tương liên dùng để giải thích về chuỗi liên kết chính và các chuỗi liên kết phụ thuộc, cũng như toàn thể chu kỳ luân hồi (trong phần thảo luận dưới đây không thấy giải thích chi tiết về các chuỗi liên kết phụ, có lẽ vì thời gian trình bày có giới hạn?).

Ông Pierre Arène: Đối với chuỗi dài liên kết chính thì hiện tượng tương liên kết nối mười hai mối dây với nhau tương đối cũng dễ hiểu, mỗi mối dây đều phải lệ thuộc vào một mối dây khác xảy ra trước đó, và phần nó thì sẽ làm phát sinh ra mối dây tiếp theo sau. Hiện tượng nối kết như thế cũng xảy ra trong các chuỗi liên kết phụ thuộc, và riêng các chuỗi liên kết phụ thuộc thì cũng tương kết với nhau thật chặt chẽ. Đối với bánh xe luân hồi hay còn gọi là chu kỳ hiện hữu thì có đôi chút khác biệt, mười hai mối dây tương liên biểu thị cho một sự vận hành toàn diện đưa đến sự tái sinh trong cõi ta bà. Và ý nghĩa của ta bàquay trở lại với sự sống này ngoài ý muốn của ta, hết kiếp này đến kiếp khác, tiếp tục như thế và sẽ còn tiếp tục như thế. Sức mạnh của nghiệp và các yếu tố bấn loạn là các động cơ thúc đẩy sự tái sinh đó.

Cô A.G.: Có đúng đấy là những gì được trình bày trong tấm tranh gọi là bánh xe hiện hữu hay không?

hoangphong-thapnhinhanduyen-03
Bánh xe hiện hữu còn gọi là bánh xe luân hồi.
[Thật ra sơ đồ trên đây rất phức tạpphong phú về ý nghĩa, gần như là một quyển kinh thu gọn, nếu muốn giải thích đầy đủ phải cần thật nhiều thì giờ]

Ông P. Arène: Bánh xe hiện hữu hay luân hồi được chia thành sáu khu vực phân bố chung quanh một trung tâm, đại khái giống như hình ảnh một cái cối xay. Sáu khu vực tượng trưng cho sáu thể dạng hiện hữu: đó là cõi thiên, cõi bán-thiên hay thánh nhân - tùy theo sách dịch -, cõi người, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷcõi địa ngục. Trục của bánh xe tượng trưng cho hình ảnh quay tròn của sự hiện hữu, khu vực của trục thường được biểu thị bởi ba con vật là: con heo, con rắn và con gà trống.

Cô A.G.: Ba con vật ấy là biểu tượng của ba thứ nọc độc (tam độc: tham, sân, si) có đúng thế không, thưa ông?

Ông P. Arène: Đúng, đấy là ba thứ nọc độc. Nhưng tại sao lại gọi là nọc độc? Bởi vì chúng sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực. Con heo tượng trưng cho vô minhvô minhnguyên nhân tạo ra thù ghét và bám víu, thù ghét và bám víu thì được tượng trưng bởi con rắn và con gà (trên biểu đồ, ba con vật cắn đuôi nhau và quay tròn). Vô minh cũng là nguyên nhân tiên khởi làm phát sinh ra toàn bộ mười hai mối dây tương liên. Chính vì vô minhchúng ta phải tái sinh vào cõi ta bà, dầu cho tái sinh trong một hoàn cảnh tốt đẹp hay tệ hại cũng vậy.

Cô A.G.: Xin ông vui lòng giải thích toàn bộ mười hai mối dây tương liên trước khi phân tích chi tiết từng mối dây một.

Ông P. Arène: Nếu thế thì phải bắt đầu từ phần bên trên của bánh xe: phần này tượng trưng cho vô minh (mối dây 1: vô minh, avidya). Kế đó là nghiệp khai mào hay là nghiệp phát khởi - tùy theo cách dịch từ tiếng Phạn hay tiếng Tây tạng (mối dây 2: hành, tức là sự tạo nghiệp, samskara). Tiếp theo đó là tri thức (mối dây 3: thức, vijnana), tri thức lại làm phát sinh ra mối dây kế tiếp gọi là danh xưng và hình tướng (mối dây 4: danh sắc, namarupa). Tiếp theo là sáu cơ sở hay sáu lãnh vực hiểu biết (mối dây 5: lục căn, tức các khả năng giác cảm, ayatana), sáu lãnh vực hiểu biết tạo ra sự tiếp xúc (mối dây 6: xúc, sparsa), tiếp xúc tạo ra sự cảm nhận (mối dây 7: thụ, sự cảm biết, vedana), cảm nhận hay cảm biết kéo theo sự thèm khát (mối dây 8: ái, trsna), sự thèm khát sinh ra bám víu (mối dây 9: thủ, chiếm giữ, upadana), bám víu làm phát sinh sự hiện hữu (mối dây 10: hữu, sinh khởi, bhava), và chính sự hiện hữu sẽ đưa đến sự sinh (mối dây 11: sinh, jati), và sau sự sinh thì nhất định phải già và chết (mối dây 12: lão tử), toàn bộ chuỗi dài níu kéo đó gọi là mười hai mối dây tương liên.

Cô A.G.: Đến đây chúng ta trở lại tìm hiểu từng mối dây một và bắt đầu bằng mối dây thứ nhất tượng trưng cho vô minh nguyên thủy. Tại sao lại gọi là nguyên thủy?

Ông P. Arène: Có ít nhất hai lý do để gọi sự vô minh ấy là nguyên thủy. Lý do thứ nhất là nó khơi mào và làm phát sinh ra toàn bộ mười hai mối dây liên kết.

Cô A.G.: Vô minh được tượng trưng như thế nào trên bánh xe luân hồi?

Ông P. Arène: Vô minh được tượng trưng bởi một bà già mù lòa chống gậy đang mò mẫm đi. Hình ảnh bà cụ được trình bày trên phần cao nhất của bánh xe.

Cô A.G.: Hình ảnh đó muốn nói lên điều gì?

Ông P. Arène: Sự mù lòa của bà cụ già tượng trưng cho sự u tối, tức là đặc tính của vô minh. Chiếc gậy của bà cụ tượng trưng cho sự cảm nhận sai lầm về hiện thực. Sai lầm, bởi vì cây gậy chỉ giúp cho bà cụ nhận biết được đường đi, nhưng sự nhận biết đó rất giới hạnphiến diện.

Cô A.G.: Có hai thứ vô minh. Vậy xin ông trình bày chi tiết hơn.

Ông P. Arène: Vô minh thứ nhất gọi là vô minh nguyên nhân, loại vô mình này cũng khá dễ hiểu. Dầu sao thì vô minh nguyên nhân cũng chỉ giữ tầm quan trọng thứ yếu, chỉ cần trình bày sơ lược cũng đủ. Đó là loại vô minh liên quan đến sự kiện không phân biệt được một nguyên nhận nào hay một hành động nào sẽ mang lại hậu quả tốt, cũng không phân biệt được một hành động nào hay một nguyên nhân nào sẽ mang lại một hậu quả xấu. (câu trả lời thật đơn giản nhưng hết sức cao siêu và cô đọng, đây là định nghĩa về nghiệp mà chúng ta thường hiểu và thường được nghe giảng: hành động tốt sinh ra quả tốt, hành động xấu sinh ra quả xấu. Tuy nhiên trên thực tế thì ta hành động nhưng không hề ý thức được hậu quả sẽ phát sinh từ hành động ấy sẽ ra sao, chẳng hạn như những người hung dữ không ý thức được hành động của mình, những người đồ tể vừa làm việc vừa vui đùa hay trong đầu đang nghĩ đến một chuyện khác. Đó là một cách tạo nghiệp tiêu cực mà không biết là minh đang tạo nghiệp tiêu cực

Cô A.G.: Còn loại vô minh thứ hai là gì?

Ông P. Arène: Loại vô minh thứ hai rất quan trọng, bởi vì nó giữ vai trò chủ động đưa ta tái sinh trở lại trong cõi ta bà dưới một thể dạng thuận lợi hay bất thuận lợi. Loại vô minh đó gọi là vô minh về sự nhận biết sai lầm về cái tôi, cái ngã, về cái chủ thể gọi là tôi. Có thể kể ra rất nhiều thí dụ trong đời sống hằng ngày. Thí dụ như ta đang đứng trên miệng một hố sâu, hay trên mép mái nhà và ta sợ sẽ bị trượt chân, ta có cảm giác như sắp ngã đến nơi. Hoặc một thí dụ khác, trong một tình huống nào đó ta bị vu khống trước đám đông là đã phạm vào một hành động không tốt. Trong hoàn cảnh đó ta sẽ cảm nhận được một cái tôi thật mạnh (giận dữ), sự cảm nhận đó xâm chiếm toàn bộ tâm thức ta, tất cả mọi suy tư và khả năng cảm nhận của ta đều bị tràn ngập và ta không còn để ý đến bất cứ thứ gì khác nữa, kể cả thân xác và tâm thức của chính mình. Các thí dụ vừa kể cho thấy sự nhận biết sai lầm về cái tôi, sự nhận biết ấy mang tính cách bẩm sinh và sâu kín, thông thường nó chỉ phát hiện trong các tình huống như vừa kể trên. Tuy thế sự nhận biết về cái tôi theo cách đó lại đứng ra điều khiển mọi hành động của chính mình, (đây là loại vô minh dính liền với bản năng. Thí dụ thứ nhất mà ông P. Arène nêu lên liên quan đến bản năng sợ chết khi đứng trên mái nhà và thí dụ thứ hai liên quan đến bản năng tự vệ tức là bảo vệ cái tôi hay cái ngã của mình. Nếu một cá thể sinh ra làm người thì mang bản năng của con người, nếu sinh ra làm súc vật thì mang ban năng của một con thú, đó là những gì liên quan đến vô minh từ kiếp trước tức là vô minh nguyên thủy. Vô minh nguyên thủy bị chi phối bởi bản năng đứng ra điều khiển mọi hành động của ta để tạo nghiệp buộc chặt ta vào thế giới luân hồi).

Cô A.G.: Đúng vậy, chính đó là nguyên nhân làm phát sinh ra mối dây tương liên thứ hai mà người ta gọi là nghiệp khai mào hay là nghiệp phát khởi. Vậy loại nghiệp đó là gì?

Ông P. Arène: Tôi muốn được trình bày thêm những gì đã nêu lên trên đây liên quan đến sự nhận biết sai lầm về cái tôi. Nếu ta xem cái ngã hay cái tôi hiện hữu một cách tuyệt đối thì ta thường có xu hướng gán cho nó một vai trò quá lớn. Ta sẽ rơi vào tình trạng trân quý cái tôi ấy quá đáng, và như thế sẽ có thể làm tổn hại đến người khác. Cái Tôi làm phát sinh ra Kẻ khác, (tức không phải là tôi). Sự cảm nhận ấy sẽ chi phối mọi hành động của ta trong mục đích bảo vệ lấy cái ngã của chính ta, nói một cách khác là ta cố gắng tạo ra những hoàn cảnh ưu thếthuận lợi nhất cho cái tôi của riêng mình, không cần biết là cách xử thế đó có gây ra thiệt thòi cho người khác hay không.

Cô A.G.: Có nghĩa là các phản ứng đó sẽ phát lộ qua các hành động của chính mình?

Ông P. Arène: Đúng như thế, đấy là cách thúc đẩy ta hành động. Những gì vừa trình bày có lẽ đủ để trả lời cho câu hỏi mà cô vừa nêu lên liên quan đến mối dây tương liên thứ hai, gọi là nghiệp khơi mào hay phát khởi, (có nghĩa là cái tôi bàng bạc và sâu kín trong mỗi cá thể thúc đẩychi phối mọi hành động của cá thể ấy để tạo ra nghiệp, và nghiệp đó gọi là nghiệp khơi mào và chúng sẽ phát khởi để đưa đến cái chết và sự tái sinh) .

Cô A.G.: Các loại nghiệp đó được tượng trưng như thế nào trên sơ đồ bánh xe luân hồi?

Ông P. Arène: Nghiệp khơi mào hay phát khởi được trình bày tiếp theo sau hình ảnh mù lòa của bà cụ già. Nghiệp phát khởi được tượng trưng bởi một người thợ đồ gốm đang nắn một cái bình trên một bàn quay. Hình ảnh đó tượng trưng cho nghiệp mà chính mình đang uốn nắn để đưa đến sự hiện hữu của chính mình trong tương lai.

Cô A.G.: Vậy nghiệp phát khởi sẽ tạo ra những vết hằn in đậm trong tri thức của ta, và tri thức là mối dây thứ ba trong mười hai mối dây tương liên. Vậy vai trò của tri thức là gì? 

Ông P. Arène: Mối dây thứ ba là kết quả phát sinh từ hai mối dây thứ nhất. Người ta gọi mối dây này là tri thứctượng trưng nó bằng hình ảnh một con khỉ trên biểu đồ bánh xe luân hồi. Tại sao lại tượng trưng bằng một con khỉ? Bời vì tâm thức ta chưa buông vật này đã nắm bắt vật khác, giống như con khỉ nhảy hết cành này sang cành khác. Cái tri thức lạ lùng đó thật sự là cái gì? Chẳng qua đấy chỉ là những khoảnh khắc liên tục trên dòng tiếp nối của tâm thức ta và trong những khoảnh khắc liên tục ấy nghiệp tác động để lưu lại những vết hằn. Vậy chúng ta đã thấy rõ là mối dây ấy (tức mối dây thứ 3: tri thức) sinh ra từ tác ý (tức mối dây thứ 2: hành, sự tạo nghiệp) và vai trò của nó là lưu giữ lại các vết hằn do nghiệp tạo ra. Có thể nêu lên thí dụ như sau, chẳng hạn như ta đi câu cá, đây chỉ là một thí dụ thôi, sẽ có hai trường hợp xảy ra, một là sau khi câu được cá ta sẽ thả con cá xuống nước trở lại vì ta không muốn tạo ra đau khổ cho nó, (cũng xin nói thêm là trong các nước Âu châu có nhiều người thích câu cá, nhưng khi câu được cá thì lại thả chúng xuống nước trở lại. Câu cá đối với họ chỉ là thú vui hay "thề thao" mà thôi). Hoặc ngược lại ta rất thích ăn cá chiên và điều đó sẽ xui khiến ta cứ giữ con cá lại. Trong trường hợp này thì nhất định vào một thời điểm nào đó trong tâm thức ta sẽ xảy ra ý định để cho con cá chết. Ý định đó là một tác ý: có nghĩa là tâm thức ta cố tình giữ lại con cá để giết nó, tác động do tác tác ý ấy gây ra sẽ lưu lại một vết hằn của nghiệp trên dòng tri thức của ta, và nhất định đấy là một vết hằn mang tính cách tiêu cực.

Cô A.G.: Và đó cũng là những gì sẽ làm phát sinh ra danh xưng và hình tướng (tức mối dây thứ 4: danh sắc), mối dây này được tượng trưng trên biểu đồ bánh xe luân hồi bằng hai người đang ngồi trên một chiếc thuyền. Vậy biểu tượng đó có ý nghĩa ra sao?

Ông P. Arène: Trước hết là có hai người: một người tượng trưng cho danh xưng, một người cho hình tướng. Tiếp theohình ảnh con thuyền tượng trưng cho sự chuyên chở ta từ sự hiện hữu này sang sự hiện hữu khác, biến thân xác này của ta thành thân xác của một cá thể mà ta sẽ trở thành trong tương lai, từ khi sinh cho đến lúc chết.

Cô A.G.: Vậy vai trò của mối dây ấy là gì?

Ông P. Arène: Có thể xem mối dây ấy (danh xưng và hình tướng) là điểm khởi đầu cho một sự hiện hữu mới, một con người mới vừa được sinh trở lại. Vậy phải định nghĩa mối dây ấy như thế nào? Hình tướng thì rất dễ hiểu. Danh xưng và hình tướng nói chung thì đại khái có thể hiểu như là năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn). Một trong năm cấu hợp liên quan đến hình tướng tức là thân xác, thân xác đó hình thành từ sự kết hợp giữa hai tế bào của cha và của mẹ. Bốn cấu hợp còn lại liên quan đến tâm thức: đó là các cấu hợp thuộc giác cảm, tác ý, sự nhận biếttri thức, nói một cách tổng quát thì đấy là tâm thức của ta. Và đó chính là thành phần tâm linh bám sâu vào các tế bào của cha và mẹ thuộc mối dây sinh (thụ thai). Một cách đơn giản người ta có thể phân biệt thành hai thành phần khác nhau là hình tướngtâm thức, cả hai tạo ra thể dạng phôi khi mới được hình thành. Đó là điểm khởi đầu đánh dấu sự hiện hữu của một cá thể.

Cô A.G.: Mối dây sau cùng mà chúng ta sẽ trình bày trước khi chấm dứt buổi thảo luận hôm nay là mối dây thuộc lãnh vực tri thức (mối dây thứ 5: lục căn, tức sáu giác cảm hay sáu khả năng hiểu biết). Xin ông hãy giải thích mối dây này liên quan đến mối dây danh xưng và hình tướng như thế nào.

Ông P. Arène: Cũng dễ hiểu thôi vì mối dây liên quan đến sự hiểu biết chỉ là quá trình phát triển liên tụctuần tự của một cá thể tái sinh bắt đầu từ thể dạng phôi. Mối dây này được tượng trưng bằng một căn nhà trong biểu đồ của bánh xe hiện hữu, căn nhà có sáu cửa sổ tượng trưng cho sáu cơ sở hiểu biết, hay sáu khả năng giác cảm, gồm có thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác, xúc giáctri thức. Sáu khả năng giác cảm đó bắt đầu phát tiển từ tuần lễ thứ chín sau khi thụ thai và kéo dài cho đến khi đầy đủ khả năng ghi nhận được những biến đổi phát sinh từ sự tiếp xúc với ngoại cảnh, chẳng hạn như sự va chạm với một vật thể nào đó.

Cô A.G.: Xin cám ơn ông thật nhiều. 

 

Buổi phát sóng ngày 12 tháng 8 năm 2007

Cô A.G.: Xin ông có thể nào tóm lược lại thật ngắn gọn năm mối dây tương liên đã được trình bày trong buổi phát sóng trước đây.

Ông P. Arène: Mối dây thứ nhất là vô minh, mối dây này đương nhiên có nghĩa là sự cảm nhận hay nắm bắt sai lầm về cái tôi. Mối dây thứ hai là nghiệp khai mào hay phát khởi, sở dĩ gọi là khai mào hay phát khởi là vì nghiệp này sẽ mang lại một kiếp sống mới. Mối dây thứ ba gọi là tri thức, gồm có hai thành phần: thành phần thứ nhất là tri thức thuộc vào giây phút xảy ra nguyên nhân (tức là giây phút chi phối bởi xung động của nghiệp có sẵn trong kiếp trước) và phần thứ hai là tri thức liên quan đến hậu quả (tức là tri thức thuộc vào giai đoạn tái sinh. Tóm lại tri thức giữ vai trò nối liền hai kiếp sống, là một động lực phát sinh từ xung năng của nghiệp để thúc đẩy sự tái sinh, hết kiếp này đến kiếp khác). Tri thức thuộc vào kiếp tái sinh hình thành ngay khi xảy ra sự thụ thai. Điều đó cho thấy nếu muốn cho chuỗi liên kết của mười hai mối dây được diễn tiến đầy đủ thì phải cần có hai kiếp sống nối tiếp nhau. Sau khi phần tri thức liên quan đến hậu quả phát sinh thì cũng sẽ phát sinh danh xưng và hình tướng tức là thể dạng phôi, đó là giai đoạn đầu tiên của một cá thể sẽ được sinh ra sau này. Sau khi đã trở thành danh xưng và hình tướng thì các khả năng giác cảm của một cá thể cũng sẽ theo đó mà phát triển, bắt đầu từ tuần lễ thứ chín sau khi thụ thai cho đến lúc mối dây kế tiếp bắt đầu hình thành (mối dây thứ 6: xúc), tức là lúc xảy ra một sự tiếp xúc của các khả năng giác cảm với một vật thể nào đó, sự tiếp xúc ấy tạo ra một sự biến đổi mà giác cảm có thể ghi nhận được. 

Cô A.G.: Điều đó làm phát sinh ra mối dây thứ sáu tức là mối dây liên quan đến sự tiếp xúc. Xin ông cho biết mối dây này được tượng trưng như thế nào trên sơ đồ của bánh xe luân hồi?

Ông P. Arène: Mối dây thứ sáu được tượng trưng bởi một người đàn ông và một người đàn bà đang ôm nhau. Sự tiếp xúc thể xác đó tuợng trưng cho sự kết hợp giữa một vật thể và một cơ quan giác cảm liên quan trực tiếp với khả năng tri thức liên hệ (vật thể, xúc giáctri thức về xúc giác), sau khi hội đủ ba thành phần như vừa kể thì sự tiếp xúc sẽ diễn đạt vật thể ấy theo các dạng thức khác nhau (tức là mối dây thứ bảy: thụ, hay là sự cảm biết) như thích thú, khó chịu hay trung hòa

Cô A.G.: Tuy nhiên ngay trong lúc đó người ta chưa có thể diễn đạt được (trong giai đoạn ghi nhận của mối dây thứ sáu), bởi vì sự cảm biết chưa phát sinh?

Ông P. Arène: Đúng là như thế. Phân biệt được hai thể dạng này cũng không phải là dễ, bởi vì trên thực tế mối dây tiếp xúc chỉ là một thứ chất liệu để tiếp nhận một vết hằn in lên đó mà thôi, sau đấy thì vết hằn mới được diễn đạt thành thích thú, khó chịu hay trung hòa.

Cô A.G.: Sự cảm nhận (hay cảm biết) sẽ xảy ra trong thời điểm này, và đó là mối dây thứ bảy, vậy mối dây này sẽ được tượng trưng như thế nào trên biểu đồ bánh xe luân hồi?

Ông P. Arène: Sự cảm nhận hay cảm biết được tượng trưng bởi một người bị một mũi tên đâm vào mắt. Đó là một cảm giác thật mạnh và nhất định sẽ gây ra khó chịu, điều đó cũng ngụ ý nêu lên ba loại giác cảm khác nhau: thích thú, khó chịu và trung hòa. Đến đây xin trở lại yếu tố liên quan trực tiếp đến sự cảm nhận. Thật ra thì sự cảm nhận vừa là một yếu tố tâm thần lại vừa là một thể dạng có tính cách cấu hợp, tuy nhiên để đơn giản hóa sự phức tạp này chúng ta sẽ thu hẹp ý nghĩa của sự cảm nhận trong lãnh vực tâm thần mà thôi, vậy chức năng của nó là nhận biết một vật thể theo ba dạng thức cảm nhận trên đây (thích thú, khó chịu, trung hòa). Vậy có thể hiểu là nghiệp khi đã chín sẽ liên đới tạo ra những dạng thức cảm nhận khác nhau, có nghĩa là mỗi dạng thức cảm nhận là kết quả mang lại từ một thứ nghiệp nào đó đã được tích lũy từ trước. Dạng thức cảm nhận thích thú liên đới với nghiệp tích cực, dạng thức cảm nhận khó chịu liên đới với nghiệp tiêu cực và đối với dạng thức cảm nhận trung hòa thì vết hằn của nghiệp cũng mang tính cách trung hòa.

Cô A.G.: Đến đây thì chúng ta sẽ chuyển sang lãnh vực của mối dây thứ tám là sự thèm khát (ái), thèm khát không còn là một yếu tố tâm thần nữa mà đã chuyển sang một thứ gì khác, có phải thế không thưa ông?

Ông P. Arène: Thèm khát là một hình thức của bám víubám víu vẫn còn là một yếu tố tâm thần, tuy nhiên thuộc vào một cấp bậc khác hơn, nếu có thể nói như thế.

Cô A.G.: Vậy yếu tố này được tượng trưng như thế nào?

Ông P. Arène: Sự thèm khát được tượng trưng bằng một người đang uống nước, có một số bình luận gia cho là đang uống rượu. Tại sao lại là rượu? Bởi vì rượu không làm hết khát mà chỉ làm cơn khát sẵn có trở nên gay gắt thêm.

Cô A.G.: Chẳng qua đấy chỉ là những gì đặc thù của thế giới ta bà, tức là dục vọng này làm phát sinh ra dục vọng khác?

Ông P. Arène: Đúng như thế. Sự thèm khát quái lạ đó thật ra chỉ là một hình thức bám víu, có thể nói đấy là một cách tập trung và tác động. Thi dụ đối với một giác cảm tích cực thì sẽ sinh ra sự ham muốn được kéo dài thêm giác cảm ấy, đối với một giác cảm tiêu cực thì mong muốn làm sao có thể tránh được nó, đối với một giác cảm trung hòa thì mong muốn nó đừng hóa thành tệ hại. Sự thèm khát giữ một vai trò thật quan trọng mà chúng ta đã nêu lên phớt qua trong phần trên đây khi đề cập đến sự chuyển tải các vết hằn của nghiệp, mang lại sự tái sinh và sự hình thành của tri thức hậu quả. Tại sao lại như thế? Bởi vì như chúng ta đã biết, sự thèm kháttham lam quá độ là những gì đã tiếp tay nuôi dưỡng cho vết hằn của nghiệp.

Cô A.G.: Vậy căn cứ vào sự kiện đó chúng ta cũng có thể bảo rằng mối dây tiếp theo là sự chiếm giữ (mối dây thứ 9: thủ), sẽ liên kết với mối dây thèm khát (mối dây thứ 8: ái), tuy nhiên vẫn có một sự khác biệt khá lớn giữa hai mối dây đó, có phải như thế không, thưa ông?

Ông P. Arène: Vâng, đúng là một sự tiếp nối của mối dây thèm khát mà người ta gọi là tham lam (dục vọng), mối dây của sự chiếm giữ được tượng trưng bằng một người đàn bà hay đàn ông, hoặc một con khỉ đang cướp đoạt một trái cây. Cướp đoạt có nghĩa là chiếm giữ và trong trường hợp đó chủ thể chiếm giữ hoàn toàn bị thu hút bởi đối tượng, chính đó là điểm khác biệt so với sự thèm khát đơn thuần, bởi vì sự thèm khát đơn thuần trong mối dây trước chỉ là một hình thức mong muốn kéo dài sự cảm nhận thích thú, tức là còn thuộc trong lãnh vực của giác cảm (không cần đòi hỏi đối tượng phải là sở hữu của mình).

Cô A.G.: Trong khi đó thì tham lam là một hình thức thúc đẩy muốn chiếm đoạt đối tượng tức là những giác cảm đó, có phải thế không thưa ông?

Ông P. Arène: Đúng là như thế. Tham lam có nghĩa là bám víu vào vật thể tạo ra giác cảm, có nghĩa là nhắm thẳng vào vật thể bám víu mà quên đi không còn trực tiếp chú ý đến các giác cảm nữa. 

Cô A.G.: Vậy khi các vết hằn của nghịệp đã chín muồi thì sẽ chuyển sang mối dây tương liên của sự hình thành (mối dây thứ 10: hữu, sinh khởi). Tại sao mối dây này là một mối dây có tầm quan trọng lớn lao, và người ta đã tượng trưng nó như thế nào?

Ông P. Arène: Sự hình thành là giai đoạn cuối cùng của quá trình níu kéo, có nghĩa là trong giai đoạn này nghiệp khơi mào dưới dạng thể một vết hằn đã chín muồi sau khi được nuôi dưỡng bởi sự thèm khát và sự tham lam như vừa được đề cập trên đây, nó sẽ đạt được đầy đủ khả năng để tạo ra một sự sinh mới tức là tái sinh, và khả năng tạo ra một sự sinh mới gọi là mối dây hình thành (mối dây thứ 10: hữu), một số học giả còn dịch mối dây hình thành (devenir) là mối dây hiện hữu (existence). Sự hình thành được tượng trưng bởi một người phụ nữ mang thai. Quả thật không có cách tượng trưng nào hay hơn, bởi vì hình ảnh đó cho thấy một cá thể đang được hình thành.

Cô A.G.: Vậy tiếp theo đó là mối dây gọi là sinh, tức là người phụ nữ sẽ hạ sinh ?

Ông A.G.: Mối dây gọi là sinh có một đặc điểm riêng: nó khởi sự từ lúc tri thức thâm nhập vào các tế bào của cha mẹ (tinh trùng và noãn cầu). Sự sinh sẽ khởi sự cùng lúc với sự hình thành của danh xưng và hình tướng (tức là thụ thai). Thật ra thì đấy chỉ là sự kết hợp của các cấu thể sẵn có (tri thức, tinh trùng và noãn cầu). Những gì đặc thù trong mối dây tương liên này là sự diễn biến liên tục từ khi bắt đầu xảy ra biến cố sinh (thụ thai) kéo dài cho đến biến cố chết.

Cô A.G.: Vậy có phải vẫn còn nằm trong lãnh vực của mối dây thứ 11? 

Ông P. Arène: Đúng như thế, tất cả mọi người trong chúng ta đều đang bị vướng mằc trong mối dây thứ 11, kể cả cô và cả tôi trong lúc này.

Cô A.G.: Vậy tất cả rồi sẽ phải chuyển sang mối dây tương liên thứ mười hai: tức là sự già nua, cái chết và khổ đau. Tại sao mối dây này lại được xem là khoen cuối cùng trong toàn bộ sợi dây xích tương liên? 

Ông P. Arène: Thật hết sức hiển nhiên, có sinh tất có tử. Vậy già nua và cái chết thật sự là gì? Trên thực tế thì sự già nua bắt đầu ngay sau khi thụ thai, sự già nua đó không giống với sự già nuachúng ta thường hiểu, vì thông thường chúng ta cho rằng sự già nua chỉ có thể xảy ra sau giai đoạn trưởng thành. Đối với Phật giáo thì sự già nua khởi sự ngay từ khoảnh khắc thứ hai sau khoảnh khắc thứ nhất là sự thụ thai. Tế bào của cha và mẹ kết hợp để tạo ra hình tướng và có thể gọi đấy là thân xác, trong quá trình phát triển của cấu hợp hình tướng các biến dạng sẽ phát sinh theo và cứ thế mà tiếp tục cho đến giai đoạn chót gọi là sự già nua. Còn cái chết thì có nghĩa là sự hủy hoại của cấu hợp hình tướng hay thân xác.

Cô A.G.: Cần phải có bao nhiêu kiếp sống để hoàn tất toàn bộ một chu kỳ như thế?

Ông P. Arène: Cần phảiít nhất hai kiếp sống, điều này đã được nói đến trước đây. Tri thức thuộc giai đoạn hậu quả (tái sinh) chỉ có thể hình thành khi bắt đầu một kiếp sống tiếp theo sau. Cũng cần phải hiểu là giữa hai giai đoạn tri thức nguyên nhân (tạo nghiệp) và tri thức hậu quả (tái sinh) cũng có thể xảy ra nhiều kiếp sống (trung gian). Khi nói đến hai kiếp sống thì đấy là hai kiếp sống trong cùng một chu kỳ. Có nghĩa là tri thức của ta sẽ gồm có hai phần: tri thức của giai đoạn nguyên nhântri thức của giai đoạn hậu quả. Giữa hai giai đoạn tri thức đó, nếu như vết hằn của nghiệp khơi mào không hội đủ cơ duyên hay điều kiện để trở thành chín muồi thì cũng có thể xảy ra nhiều kiếp sống khác (có nghĩa là vô minh nguyên thủy sinh ra nghiệp khơi mào, nếu nghiệp khơi mào không hội đủ cơ duyên để để trở thành chín muồi "giúp" cho một cá thể đạt được thể dạng già nua thì cá thể ấy sẽ phải chết non vì tác động của một thứ nghiệp khác mạnh hơn, chẳng hạn như các trường hợp chết ở thể dạng phôi, thai nhi, ấu nhi, hay chết trẻ vì bệnh tật, tai nạn, bị xử tử..., chu kỳ luân hồi sẽ quay ngược lại mối dây sinh trước khi xảy ra mối dây cuối cùnggià nua, bệnh tật và cái chết). Tuy nhiên thì dầu sao trong trường hợp này ít ra cũng phải cần có thêm một kiếp sống mới nữa thì toàn bộ chu kỳ mới có thể hoàn tất được. Nếu muốn cho mười hai mối dây tương liên diễn biến trở lại đầy đủ thì phải cần ít nhất là ba kiếp sống là như thế.

Cô A.G.: Vậy ông có thể nào giải thích toàn bộ diễn tiến đó theo chiều ngược lại để theo dõi xem sự lôi kéo liên tục sẽ xảy ra như thế nào ? 

Ông P. Arène: Người ta có thể hình dung theo chiều ngược lại giống như tháo gỡ tuần tự từng quân bài được xếp chống lên nhau để tạo thành một cái nhà. Nếu không có sinh thì không có tử, nếu không có hình thành thì sẽ không có sinh. Nếu khôngthèm kháttham lam thì sẽ không có các thứ khác xảy ra tiếp theo sau. Cứ như thế người ta có thể đi ngược trở về nguyên nhân đầu tiên tức là vô minh, nếu có thể nói như thế.

Cô A.G.: Vậy, người ta có thể tự giải thoát ra khỏi chu kỳ tái sinh để khỏi quay trở lại lại thế giới ta bà hay không? Có phương pháp nào giúp thực hiện được điều đó hay chăng?

Ông P. Arène: Nhất định là phải có một phương pháp để thực hiện điều đó, nếu không thì Phật giáo không có một lý do nào để tồn tại, vì vai trò của Phật giáo không phải chỉ để mô tả các hiện tượng mà thôi. Vô minh tác động vào sự sống của chúng ta từ những thời gian không khởi thủy và nó không phải là một thành phần nội tại thuộc bản thể tự nhiên của tâm thức. Vì lý do vô minh không phải là thành phần tự nhiên của tâm thức nên ta có thể loại bỏ được nó. Nhưng phải làm thế nào? Phải dựa vào những gì trực tiếp đối nghịch với nó tức là đối nghịch với sự nhận biết sai lầm về cái tôi, sự đối nghịch ấy chính là trí tuệ tối thượng giúp nhìn thấy cái tôi, cái ngã đúng với thực thể của nó, tức là tính cách lệ thuộc của cái tôi.

Cô A.G.: Có phải đấy là cách giúp chúng ta tái sinh trong một thể dạng tự do không còn bị trói buộc?

Ông P. Arène: Khi mà ta không còn vướng mắc vào sự nắm bắt sai lầm ấy nữa, thì lúc đó ta sẽ không còn nhìn thấy tính cách tuyệt đối của cái tôi nữa, và ta chỉ xem nó là một thứ gì mang tính cách lệ thuộc, hoàn toàn trống không về sự hiện hữu. Chính đấy là chủ thuyết về Tánh không, tức là sự trống không của mọi sự hiện hữu. Khi đã quán nhận được điều đó ta sẽ cảm thấy mình không còn liên hệ với cái tôi giống như trước kia nữa. Ta sẽ không còn phải tái sinh ngoài sự mong muốn của mình trong trong bất cứ một cõi nào thuộc vào thế giới luân hồi. Tuy nhiên ta vẫn có thể tự hỏi nếu như không tái sinh trở lại trong thế giới ta bà thì ta sẽ trở thành cái gì đây?

Cô A.G.: Đúng thế, điều đó cũng không có nghĩa là sẽ rơi vào cõi hư không?

Ông P. Arène: Đúng như thế. Tự mình nhận thấy đã thoát ra khỏi thế giới ta bà, tuy nhiên ta vẫn có thể tự nguyện quay trở lại với cái thế giới khổ đau ấy, và nếu chọn giải pháp đó thì ta sẽ phải tiếp tục lang thang trong thế giới ta bà, nhưng tuyệt nhiên sẽ không còn khồ đau như trước nữa. Thật ra khi đã thoát ra khỏi thế giới ta bà thì ta sẽ có hai cách tái sinh khác nhau để chọn lựa: cách thứ nhất là tái sinh vào cõi Tịnh độ của chư Phật, cách thứ hai là quay về với thế giới hiện hữu như vừa trình bày trên đây. Nếu như ta quay lại làm người thì đương nhiên ta sẽ phải chấp nhận sự sinh và cái chết, nhưng thay vì phải gánh chịu khổ đau như những người bình thường thì ta sẽ không còn cảm thấy khổ đau trong sự sinh, sự hình thành và cái chết nữa. 

Cô A.G.: Thưa ông Pierre Arène, xin cám ơn ông về những lời giải thích thật minh bạch của ông.

http://www.bouddhisme-france.org  (1)
http://www.bouddhisme-france.org  (2)

Bures-Sur-Yvette, 10.01.10
Hoang Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1645)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1575)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1496)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1466)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1411)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1711)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1434)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2026)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1471)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1553)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1390)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2906)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1377)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1724)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1681)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1633)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1477)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2643)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1604)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1613)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1404)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1424)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1565)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1444)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1432)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1521)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2203)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1548)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1511)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1621)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1840)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1534)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1412)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1671)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1422)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1701)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2380)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1958)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1761)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1620)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1730)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1549)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1337)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1528)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant