Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn con đường của Trí tuệ

15 Tháng Tư 201200:00(Xem: 27554)
Bốn con đường của Trí tuệ
BỐN CON ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ

Ngài Shamar Rinpoche

Trích trong bài giảng trong lễ Phowa ở Bodhi Path Virginia, 20/6/2004

Tôi muốn chia sẻ một giáo lý truyền thống rằng làm cách nào để rèn luyện một cách đánh giá tốt. Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tôi tin rằng rất nhiều vấn đề của xã hội hiện đại có thể được giải quyết nếu người ta nghe theo những lời khuyên đơn giản này.

Tôi gọi giáo lý này là “Bốn con đường của Trí tuệ”. Người có trí tuệ sẽ biết ai và những gì họ có thể dựa vào. Từ đó họ có thể tránh được rất nhiều cái bẫy của những suy nghĩ lộn xộn.

Bài giảng này bao gồm bốn châm ngôn đơn giản:

1. Dựa vào giáo lý chứ không phải là người thầy

2. Dựa vào ý nghĩa chứ không phải từ ngữ

3. Dựa vào chiều sâu chứ không phải bề mặt

4. Dựa vào trí tuệ chứ không phải khái niệm

 

1. Dựa vào giáo lý chứ không phải người thầy

Chúng ta thường bị ấn tượng bởi những bậc thầy khiến ta lóa mắt vì sức lôi cuốn của mình. Những nhân cách mạnh mẽ thường mang đến những cảm xúc mãnh liệt cho những thính giả của họ. Những giảng sư hoặc những bậc thầy những người mà ta bị cuốn hút, kích động hoặc hấp dẫn có thể thúc đẩy ta hành động. Ngày nay, dường như những giảng sư phải trở thàh những “diễn giả tạo được động lực” nếu không họ sẽ không có một người đệ tử nào cả.

Điều này có thể gây ra một số vấn đề. Việc nêu tên một người dẫn đường có sức hút đã dẫn đường cho người ta đến đau khổcần thiết không? Vẻ bề ngoài có thế làm ta lạc lối. Sức lôi cuốn không nói cho ta biết tri thức của người đó là đúng hay sai.

Hãy chọn một bậc thầy tâm linh cẩn thận như khi bạn chọn một bác sĩ phẫu thuật. Cuộc sống của bạn phục thuộc vào kỹ năng của bác sĩ ấy. Và một điều dứt khoát còn quan trọng hơn phụ thuộc vào kỹ năng của người dẫn đường tâm linh.

 

Tất nhiên nhiều người có hứng thú với Phật giáo chưa cảm thấy rằng họ sẵn sàng để có một mối quan hệ cá nhân với một vị thầy. Có thể việc đọc kinh sách được viết bởi nhiều bậc thầy khác nhau đã là đủ với họ. Khi mới bắt đầu, việc thăm dò là rất hữu ích. Nhưng nếu chúng ta muốn thực hành để vượt lên trên sự nông cạn hời hợt, nếu ta muốn có sự tiến bộ, thì ta cần phải tìm một bậc thầy.

Tôi đề nghị rằng khi ta chọn một bậc thầy về giáo pháp ta nên cẩn thận như khi chọn một bác sĩ phẫu thuật bệnh ung thư. Trước khi giao phó cho một vị thầy, ta cần phải điều tra rõ. Trước tiên hãy tìm hiểu vài người. Sau đó, chọn một người cho mình dựa trên những tiêu chuẩn quan trọng nhất: kỹ năng giảng pháp, sự hiểu biết về thiền địnhtri thức về giáo pháp.

Theo truyền thống, những bậc thầy của triết học Phật giáo thì được phân biệt rõ ràng với những bậc thầy về thiền định. Việc tìm được người có đủ khả năng ở cả hai lĩnh vực này là điều không dễ. Nhưng những bậc thầy có khả năng trong thiền định còn khó tìm hơn là những người có tri thức hàn lâm trong triết học. Những người thầy về triết học có thể vẫn có khả năng dạy về thiền định cơ bản. Nhưng những pháp thực hành cao hơn chỉ có thể được giảng giải bởi những người tự mình đã đạt được bước tiến trên con đường Phật pháp.

Những bậc thầy trong Phật pháp thì nên giảng giải những giáo lý của Đức Phật, chứ không phải giáo lý của chính người đó. Do vậy việc hiểu một chút về giáo lý của Phật là rất quan trọng. Hãy đọc những sách về Đức Phật lịch sử và những thành tựu giả trong quá khứ như những đệ tử của Phật và những bậc thượng sư Tây Tạng như Milarepa. Điều đó sẽ giúp bạn đánh giá được Pháp của một vị thầy nói ra có phải là chân thực hay không.

2. Dựa vào ý nghĩa chứ không phải câu chữ

Người ta thích nghe theo những lời hay. Ngôn ngữ gây ấn tượng có thể rất có sức thuyết phục. Từ ngữ có thể rất khéo léo làm cho ý nghĩa được rõ ràng hay nó có thể làm cho mọi thứ đẹp lên, như trong một bài thơ hay bài hát, hay từ ngữ có thể được sử dụng để gây ấn tượng đối với người nghe, để cho họ biết rằng ta rất giỏi trong ngôn ngữ và ngữ pháp. Nhưng ý nghĩa mới là điều quan trọng nhất: ý nghĩa phải nên chuẩn xác.

Nhưng điều gì là ý nghĩa đúng đắn trong những sự dạy dỗ về tinh thần? Đầu tiên, để trở nên đúng đắn, lời giáo huấn phải mang lại lợi ích. Thứ hai, nó phải nói sự thật. Một khi đã có hai tiêu chuẩn như vậy, thì từ ngữ trở nên ít quan trọng. Nhưng từ ngữ được sử dụng tốt sẽ làm cho những lời huấn thị đúng đắn trở nên dễ đọc và thú vị hơn, vậy nên chúng rất hữu ích.

Vâng, nếu ta có thể rất giỏi trong ngôn ngữ như lại nói những lời dối trá, thì không chỉ những từ ngữ của ta trở nên vô giá trị, mà nó còn thật sự rất nguy hại, bởi có thể ta đã khiến cho nhiều người đặt niềm tin vào những thứ có hại và sai lầm.

Đây là một ví dụ. Chuyện kể rằng ngày xưa một học giả Bà-la-môn có một người vợ rất xinh đẹp. Khi tuổi đã cao, người Bà-la-môn ngã bệnh và biết rằng không bao lâu nữa ông ta sẽ chết. Vì là một người ghen tuông, ông ta sợ rằng có một người đàn ông khác sẽ cưới vợ mình sau khi ông chết. Vì vậy, là một học giả và rất quyết đoán, ông ta đã hành động rất cực đoan. Ông dùng hết sức lực của mình để viết một cuốn sách để thuyết phục vợ mình nhảy vào giàn hỏa thiêu trong đám tang của ông. Trong cuốn sách này, người Bà-la-môn đã nói rằng khi thân thể của ông ta được hiến tế cho thần Shiva, nó sẽ biến từ cơ thể đang cháy thành một cơ thể được giải phóng. Ông ta tiếp tục viết rằng vợ của một người Bà-la-môn không chỉ là một người vợ, mà còn là một nữ thần trong một sự kết hợp thiêng liêng, rằng cô ấy nên tham gia cùng với người chồng để cùng được giải thoát. Văn phong và ngôn ngữ trong cuốn sách thật quá hoàn hảo, và người Bà-la-môn kia đã trở thành một bậc thầy của ngôn từ. Thật sự, trong truyền thuyết, cuốn sách đã có sức thuyết phục rằng người vợ đã nhảy vào lửa cùng với chồng. Và từ đó tục lệ đầy hận thù sati đã bắt đầu ở Ấn Độ. Nó đã lan truyền một cách rộng rãi ra ngoài cả vòng pháp luật của nước Anh và vẫn còn tồn tại ở một số nơi cho đến tận ngày nay.

Ngôn từ là một bông hoa, nó có thể là thứ để trang trí. Nhưng ý nghĩa mới là phần chân thật. Ngôn từ hay và đẹp nhưng không có ý nghĩa thì giống như là đá quý ở trên một xác chết. Sức mạnh của ý nghĩa sẽ được truyền tải dù cho ngôn từ không ấn tượng, giống như một người phụ nữ đẹp không trang điểm, nhưng vẻ đẹp tự nhiên của người ấy vẫn tỏa sáng. Từ ngữ sử dụng khéo léo cùng với một ý nghĩa đúng đắn thì giống như một người phụ nữ đẹp, sức quyến rũ tự nhiên của người ấy càng được nổi bật thêm nhờ những đồ trang sức đẹp đẽ.

3. Dựa vào chiều sâu chứ không phải bề mặt

Không có ai cố gắng để trở nên nông cạn, nhưng rất nhiều người trong chúng ta lại rất vội vàng và thiếu tự tin trong chính sự phán đoán của mình, khiến cho ta phụ thuộc vào những ý tưởng mà mình tiếp nhận, những định kiến và khuôn sáo. Đặc biệttrong đời sống tinh thần, việc phải tìm hiểu giáo lý cho bản thân mình là rất quan trọng. Không có lời kêu gọi nào dành cho niềm tin mù quáng trong Phật Pháp. Ngược lại, ta cũng không thể tiến bộ trên con đường Phật Pháp nếu ta không sẵn sàng để tiến xa hơn mức thông thường.

Trong Phật giáo, việc phải nhìn bên sâu vào bên trong vẻ bề ngoàiđặc biệt quan trọng. Đức Phật đã giảng pháp ở rất nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào khả năng của những người nghe pháp, dù là người mới bắt đầu hay những hành giả cao cấp. Nhưng, dù là những giáo pháp khởi đầu cũng có thể thể hiện những thông điệp uyên thâm cho các hành giả cấp cao, những người có khả năng giải mã chúng.

Quan trọng hơn, ta cần phải có khả năng để nghĩ sâu hơn để nhận được những sự lợi lạc từ pháp. Để tôi giải thích điều này.

Nếu bạn có một vấn đề, bạn nên tìm cách giải quyết phù hợp với vấn đề đó. Nếu vấn đề này đơn giản, bạn có thể tìm một cách giải quyết nhanh chóng và dễ dàng. Nhưng nếu vấn đề của bạn phức tạp, bạn sẽ cần một cách điều trị thích hợp. Và nếu vấn đề của bạn là vấn đề sâu sắc nhất mà con người và các chúng sinh hữu tình có thể trải quavấn đề của đau khổ và sự sống còn – thì ta sẽ cần một giải pháp sâu sắc, phương thuốc mạnh mẽ nhất mà ta có.

Nếu ta không có si mê, thì ta không cần phải giải quyết chúng. Phật và Pháp cho ta hướng đi đến sự giác ngộ. Để mang được những phẩm chất của sự giác ngộ ra khỏi mớ hỗn độn của sự si mê thường ngày của chúng ta, Pháp phải được áp dụng vào mọi mặt của chính sự si mê ấy. Bằng cách này, cách giải quyết sẽ đến trực tiếp từ vấn đề của chúng ta. Một văn bản nổi tiếng được viết bởi nhà triết học cổ đại của Ấn Độ Vasubandhu, bản Abhidharmakosha (“Kho báu của Pháp sáng tỏ”) nói rằng nếu ta sử dụng phương thuốc cứu chữa cho những vấn đề nhỏ, thì cuối cùng chúng ta sẽ bóc được cả vấn đề lớn nhất của chính mình, sự si mê.

Do vậy, sự vô minh tối tăm nhất có thể được xóa bỏ bởi việc thiền định đơn giản nhất. Ví dụ, ta có thể giảm được ham muốn tính dục bằng cách thiền quán về người chết. Nhưng, sự vô minh vi tế nhất lại chỉ có thể xóa bỏ bởi trí tuệ uyên thâm nhất. Ví dụ, ta phải có Tâm định Kim Cương (Diamond Samadhi), mức độ cao nhất của sự tinh tấn thiền định trước giác ngộ, để có thể xóa được sự vô minh vi tế còn tồn tại đến bước cuối cùng của con đường Phật pháp.

Làm theo những lời này có nghĩa rằng bản thân bạn không nên tự thỏa mãn với những suy nghĩ nông cạn và cũng như việc bạn cũng không nên khuyến khích sự chỉ trích của những người khác.

4. Dựa vào trí tuệ chứ không phải khái niệm

Ở đây tôi sẽ nói gắn gọn. Câu châm ngôn cuối cùng là sâu sắc nhất, nhưng tôi sẽ chỉ nói một chút về điều này.

Đây là phần được mong đợi nhiều nhất của những người tu thiền nghiêm túc. Lĩnh hội được trí tuệ có nghĩa là nhận ra được bản chất của tâm. Để làm được việc này, ta không thể dựa vào ý thức nhị nguyên; ta sẽ đi thẳng đến tâm bất nhị, điều mà ta gọi là trí tuệ. Những người hành thiền phụ thuộc vào tâm bất nhị chứ không phải là tâm nhị nguyên thông thường. Họ biết rằng ngôn ngữ, lôgic và nguyên nhân là hữu hạn và không thể thâm nhập được vào sự chứng ngộ cuối cùng, vì vậy họ không phụ thuộc nhiều vào những điều đó.

Phụ thuộc không phải vào tâm nhị nguyên, điều đó là si mê, châm ngôn này nói, mà phải phụ thuộc vào tâm bất nhị. Đừng đi theo những ảo tưởng thông thường. Đừng quên rằng dù những ý tưởng của ta có ấn tượng hay thuyết phục thế nào, thì sự giác ngộ tối thượng cũng nằm ngoài tầm với của chúng.

 

Kết luận

Trên đây là Bốn con đường của trí tuệ. Đó có phải là biểu hiện của thế hệ suy tàn mà phần lớn chúng ta hôm nay xử sự theo cách ngược hẳn với những lời giáo huấn ấy không? Việc làm ấy là một lỗi lầm lớn chồng lên những lỗi lầm khác không phút nào dừng. Người ta tự dẫn mình đi lạc lối và sau đó làm lạc lối những người khác, lần lượt với những suy nghĩ sai lệch, tạo nên một chuỗi sai lầm nối tiếp không bao giờ hết. Làm ơn đừng để mình dính mắc vào chuỗi sai lầm ấy. Hãy tin tưởng vào bốn lời giáo huấn này, và bạn sẽ cắt được dây buộc với si mê, giống như Ngài Bồ Tát Văn Thù, người đã chứng được viên mãn trí huệ, cắt đứt hết mọi ý tưởng bằng lưỡi kiếm trí tuệ của Ngài.

 

Nguồn: http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/fondements/general/4ways-wise_shamarpa1.htm

Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 677)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 636)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 540)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 685)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 590)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 790)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 767)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 958)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 826)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1383)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 912)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 990)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1120)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1397)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1157)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 965)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 944)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1138)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1395)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1384)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1372)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1250)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant