Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn con đường của Trí tuệ

15 Tháng Tư 201200:00(Xem: 27560)
Bốn con đường của Trí tuệ
BỐN CON ĐƯỜNG CỦA TRÍ TUỆ

Ngài Shamar Rinpoche

Trích trong bài giảng trong lễ Phowa ở Bodhi Path Virginia, 20/6/2004

Tôi muốn chia sẻ một giáo lý truyền thống rằng làm cách nào để rèn luyện một cách đánh giá tốt. Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tôi tin rằng rất nhiều vấn đề của xã hội hiện đại có thể được giải quyết nếu người ta nghe theo những lời khuyên đơn giản này.

Tôi gọi giáo lý này là “Bốn con đường của Trí tuệ”. Người có trí tuệ sẽ biết ai và những gì họ có thể dựa vào. Từ đó họ có thể tránh được rất nhiều cái bẫy của những suy nghĩ lộn xộn.

Bài giảng này bao gồm bốn châm ngôn đơn giản:

1. Dựa vào giáo lý chứ không phải là người thầy

2. Dựa vào ý nghĩa chứ không phải từ ngữ

3. Dựa vào chiều sâu chứ không phải bề mặt

4. Dựa vào trí tuệ chứ không phải khái niệm

 

1. Dựa vào giáo lý chứ không phải người thầy

Chúng ta thường bị ấn tượng bởi những bậc thầy khiến ta lóa mắt vì sức lôi cuốn của mình. Những nhân cách mạnh mẽ thường mang đến những cảm xúc mãnh liệt cho những thính giả của họ. Những giảng sư hoặc những bậc thầy những người mà ta bị cuốn hút, kích động hoặc hấp dẫn có thể thúc đẩy ta hành động. Ngày nay, dường như những giảng sư phải trở thàh những “diễn giả tạo được động lực” nếu không họ sẽ không có một người đệ tử nào cả.

Điều này có thể gây ra một số vấn đề. Việc nêu tên một người dẫn đường có sức hút đã dẫn đường cho người ta đến đau khổcần thiết không? Vẻ bề ngoài có thế làm ta lạc lối. Sức lôi cuốn không nói cho ta biết tri thức của người đó là đúng hay sai.

Hãy chọn một bậc thầy tâm linh cẩn thận như khi bạn chọn một bác sĩ phẫu thuật. Cuộc sống của bạn phục thuộc vào kỹ năng của bác sĩ ấy. Và một điều dứt khoát còn quan trọng hơn phụ thuộc vào kỹ năng của người dẫn đường tâm linh.

 

Tất nhiên nhiều người có hứng thú với Phật giáo chưa cảm thấy rằng họ sẵn sàng để có một mối quan hệ cá nhân với một vị thầy. Có thể việc đọc kinh sách được viết bởi nhiều bậc thầy khác nhau đã là đủ với họ. Khi mới bắt đầu, việc thăm dò là rất hữu ích. Nhưng nếu chúng ta muốn thực hành để vượt lên trên sự nông cạn hời hợt, nếu ta muốn có sự tiến bộ, thì ta cần phải tìm một bậc thầy.

Tôi đề nghị rằng khi ta chọn một bậc thầy về giáo pháp ta nên cẩn thận như khi chọn một bác sĩ phẫu thuật bệnh ung thư. Trước khi giao phó cho một vị thầy, ta cần phải điều tra rõ. Trước tiên hãy tìm hiểu vài người. Sau đó, chọn một người cho mình dựa trên những tiêu chuẩn quan trọng nhất: kỹ năng giảng pháp, sự hiểu biết về thiền địnhtri thức về giáo pháp.

Theo truyền thống, những bậc thầy của triết học Phật giáo thì được phân biệt rõ ràng với những bậc thầy về thiền định. Việc tìm được người có đủ khả năng ở cả hai lĩnh vực này là điều không dễ. Nhưng những bậc thầy có khả năng trong thiền định còn khó tìm hơn là những người có tri thức hàn lâm trong triết học. Những người thầy về triết học có thể vẫn có khả năng dạy về thiền định cơ bản. Nhưng những pháp thực hành cao hơn chỉ có thể được giảng giải bởi những người tự mình đã đạt được bước tiến trên con đường Phật pháp.

Những bậc thầy trong Phật pháp thì nên giảng giải những giáo lý của Đức Phật, chứ không phải giáo lý của chính người đó. Do vậy việc hiểu một chút về giáo lý của Phật là rất quan trọng. Hãy đọc những sách về Đức Phật lịch sử và những thành tựu giả trong quá khứ như những đệ tử của Phật và những bậc thượng sư Tây Tạng như Milarepa. Điều đó sẽ giúp bạn đánh giá được Pháp của một vị thầy nói ra có phải là chân thực hay không.

2. Dựa vào ý nghĩa chứ không phải câu chữ

Người ta thích nghe theo những lời hay. Ngôn ngữ gây ấn tượng có thể rất có sức thuyết phục. Từ ngữ có thể rất khéo léo làm cho ý nghĩa được rõ ràng hay nó có thể làm cho mọi thứ đẹp lên, như trong một bài thơ hay bài hát, hay từ ngữ có thể được sử dụng để gây ấn tượng đối với người nghe, để cho họ biết rằng ta rất giỏi trong ngôn ngữ và ngữ pháp. Nhưng ý nghĩa mới là điều quan trọng nhất: ý nghĩa phải nên chuẩn xác.

Nhưng điều gì là ý nghĩa đúng đắn trong những sự dạy dỗ về tinh thần? Đầu tiên, để trở nên đúng đắn, lời giáo huấn phải mang lại lợi ích. Thứ hai, nó phải nói sự thật. Một khi đã có hai tiêu chuẩn như vậy, thì từ ngữ trở nên ít quan trọng. Nhưng từ ngữ được sử dụng tốt sẽ làm cho những lời huấn thị đúng đắn trở nên dễ đọc và thú vị hơn, vậy nên chúng rất hữu ích.

Vâng, nếu ta có thể rất giỏi trong ngôn ngữ như lại nói những lời dối trá, thì không chỉ những từ ngữ của ta trở nên vô giá trị, mà nó còn thật sự rất nguy hại, bởi có thể ta đã khiến cho nhiều người đặt niềm tin vào những thứ có hại và sai lầm.

Đây là một ví dụ. Chuyện kể rằng ngày xưa một học giả Bà-la-môn có một người vợ rất xinh đẹp. Khi tuổi đã cao, người Bà-la-môn ngã bệnh và biết rằng không bao lâu nữa ông ta sẽ chết. Vì là một người ghen tuông, ông ta sợ rằng có một người đàn ông khác sẽ cưới vợ mình sau khi ông chết. Vì vậy, là một học giả và rất quyết đoán, ông ta đã hành động rất cực đoan. Ông dùng hết sức lực của mình để viết một cuốn sách để thuyết phục vợ mình nhảy vào giàn hỏa thiêu trong đám tang của ông. Trong cuốn sách này, người Bà-la-môn đã nói rằng khi thân thể của ông ta được hiến tế cho thần Shiva, nó sẽ biến từ cơ thể đang cháy thành một cơ thể được giải phóng. Ông ta tiếp tục viết rằng vợ của một người Bà-la-môn không chỉ là một người vợ, mà còn là một nữ thần trong một sự kết hợp thiêng liêng, rằng cô ấy nên tham gia cùng với người chồng để cùng được giải thoát. Văn phong và ngôn ngữ trong cuốn sách thật quá hoàn hảo, và người Bà-la-môn kia đã trở thành một bậc thầy của ngôn từ. Thật sự, trong truyền thuyết, cuốn sách đã có sức thuyết phục rằng người vợ đã nhảy vào lửa cùng với chồng. Và từ đó tục lệ đầy hận thù sati đã bắt đầu ở Ấn Độ. Nó đã lan truyền một cách rộng rãi ra ngoài cả vòng pháp luật của nước Anh và vẫn còn tồn tại ở một số nơi cho đến tận ngày nay.

Ngôn từ là một bông hoa, nó có thể là thứ để trang trí. Nhưng ý nghĩa mới là phần chân thật. Ngôn từ hay và đẹp nhưng không có ý nghĩa thì giống như là đá quý ở trên một xác chết. Sức mạnh của ý nghĩa sẽ được truyền tải dù cho ngôn từ không ấn tượng, giống như một người phụ nữ đẹp không trang điểm, nhưng vẻ đẹp tự nhiên của người ấy vẫn tỏa sáng. Từ ngữ sử dụng khéo léo cùng với một ý nghĩa đúng đắn thì giống như một người phụ nữ đẹp, sức quyến rũ tự nhiên của người ấy càng được nổi bật thêm nhờ những đồ trang sức đẹp đẽ.

3. Dựa vào chiều sâu chứ không phải bề mặt

Không có ai cố gắng để trở nên nông cạn, nhưng rất nhiều người trong chúng ta lại rất vội vàng và thiếu tự tin trong chính sự phán đoán của mình, khiến cho ta phụ thuộc vào những ý tưởng mà mình tiếp nhận, những định kiến và khuôn sáo. Đặc biệttrong đời sống tinh thần, việc phải tìm hiểu giáo lý cho bản thân mình là rất quan trọng. Không có lời kêu gọi nào dành cho niềm tin mù quáng trong Phật Pháp. Ngược lại, ta cũng không thể tiến bộ trên con đường Phật Pháp nếu ta không sẵn sàng để tiến xa hơn mức thông thường.

Trong Phật giáo, việc phải nhìn bên sâu vào bên trong vẻ bề ngoàiđặc biệt quan trọng. Đức Phật đã giảng pháp ở rất nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào khả năng của những người nghe pháp, dù là người mới bắt đầu hay những hành giả cao cấp. Nhưng, dù là những giáo pháp khởi đầu cũng có thể thể hiện những thông điệp uyên thâm cho các hành giả cấp cao, những người có khả năng giải mã chúng.

Quan trọng hơn, ta cần phải có khả năng để nghĩ sâu hơn để nhận được những sự lợi lạc từ pháp. Để tôi giải thích điều này.

Nếu bạn có một vấn đề, bạn nên tìm cách giải quyết phù hợp với vấn đề đó. Nếu vấn đề này đơn giản, bạn có thể tìm một cách giải quyết nhanh chóng và dễ dàng. Nhưng nếu vấn đề của bạn phức tạp, bạn sẽ cần một cách điều trị thích hợp. Và nếu vấn đề của bạn là vấn đề sâu sắc nhất mà con người và các chúng sinh hữu tình có thể trải quavấn đề của đau khổ và sự sống còn – thì ta sẽ cần một giải pháp sâu sắc, phương thuốc mạnh mẽ nhất mà ta có.

Nếu ta không có si mê, thì ta không cần phải giải quyết chúng. Phật và Pháp cho ta hướng đi đến sự giác ngộ. Để mang được những phẩm chất của sự giác ngộ ra khỏi mớ hỗn độn của sự si mê thường ngày của chúng ta, Pháp phải được áp dụng vào mọi mặt của chính sự si mê ấy. Bằng cách này, cách giải quyết sẽ đến trực tiếp từ vấn đề của chúng ta. Một văn bản nổi tiếng được viết bởi nhà triết học cổ đại của Ấn Độ Vasubandhu, bản Abhidharmakosha (“Kho báu của Pháp sáng tỏ”) nói rằng nếu ta sử dụng phương thuốc cứu chữa cho những vấn đề nhỏ, thì cuối cùng chúng ta sẽ bóc được cả vấn đề lớn nhất của chính mình, sự si mê.

Do vậy, sự vô minh tối tăm nhất có thể được xóa bỏ bởi việc thiền định đơn giản nhất. Ví dụ, ta có thể giảm được ham muốn tính dục bằng cách thiền quán về người chết. Nhưng, sự vô minh vi tế nhất lại chỉ có thể xóa bỏ bởi trí tuệ uyên thâm nhất. Ví dụ, ta phải có Tâm định Kim Cương (Diamond Samadhi), mức độ cao nhất của sự tinh tấn thiền định trước giác ngộ, để có thể xóa được sự vô minh vi tế còn tồn tại đến bước cuối cùng của con đường Phật pháp.

Làm theo những lời này có nghĩa rằng bản thân bạn không nên tự thỏa mãn với những suy nghĩ nông cạn và cũng như việc bạn cũng không nên khuyến khích sự chỉ trích của những người khác.

4. Dựa vào trí tuệ chứ không phải khái niệm

Ở đây tôi sẽ nói gắn gọn. Câu châm ngôn cuối cùng là sâu sắc nhất, nhưng tôi sẽ chỉ nói một chút về điều này.

Đây là phần được mong đợi nhiều nhất của những người tu thiền nghiêm túc. Lĩnh hội được trí tuệ có nghĩa là nhận ra được bản chất của tâm. Để làm được việc này, ta không thể dựa vào ý thức nhị nguyên; ta sẽ đi thẳng đến tâm bất nhị, điều mà ta gọi là trí tuệ. Những người hành thiền phụ thuộc vào tâm bất nhị chứ không phải là tâm nhị nguyên thông thường. Họ biết rằng ngôn ngữ, lôgic và nguyên nhân là hữu hạn và không thể thâm nhập được vào sự chứng ngộ cuối cùng, vì vậy họ không phụ thuộc nhiều vào những điều đó.

Phụ thuộc không phải vào tâm nhị nguyên, điều đó là si mê, châm ngôn này nói, mà phải phụ thuộc vào tâm bất nhị. Đừng đi theo những ảo tưởng thông thường. Đừng quên rằng dù những ý tưởng của ta có ấn tượng hay thuyết phục thế nào, thì sự giác ngộ tối thượng cũng nằm ngoài tầm với của chúng.

 

Kết luận

Trên đây là Bốn con đường của trí tuệ. Đó có phải là biểu hiện của thế hệ suy tàn mà phần lớn chúng ta hôm nay xử sự theo cách ngược hẳn với những lời giáo huấn ấy không? Việc làm ấy là một lỗi lầm lớn chồng lên những lỗi lầm khác không phút nào dừng. Người ta tự dẫn mình đi lạc lối và sau đó làm lạc lối những người khác, lần lượt với những suy nghĩ sai lệch, tạo nên một chuỗi sai lầm nối tiếp không bao giờ hết. Làm ơn đừng để mình dính mắc vào chuỗi sai lầm ấy. Hãy tin tưởng vào bốn lời giáo huấn này, và bạn sẽ cắt được dây buộc với si mê, giống như Ngài Bồ Tát Văn Thù, người đã chứng được viên mãn trí huệ, cắt đứt hết mọi ý tưởng bằng lưỡi kiếm trí tuệ của Ngài.

 

Nguồn: http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/fondements/general/4ways-wise_shamarpa1.htm

Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27617)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19666)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15457)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23090)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23370)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17392)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15586)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21710)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37788)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 21894)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23077)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21168)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28284)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32388)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25016)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34549)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22784)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27540)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31147)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13510)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 24945)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27632)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 21939)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20644)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22132)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 26941)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 23987)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21749)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14631)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 22986)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 23879)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 20943)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14086)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19805)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22355)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 13968)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 27898)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22671)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28050)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10904)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28366)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31416)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26001)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14813)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 27942)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7314)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25205)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20625)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21024)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12159)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11819)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12709)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26479)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 12974)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 26870)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32663)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31466)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32401)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 12912)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12058)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant