Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Giới thiệu về Kim Cương thừa

15 Tháng Tư 201200:00(Xem: 29443)
Giới thiệu về Kim Cương thừa
GIỚI THIỆU VỀ KIM CƯƠNG THỪA

Đức Shangpa Rinpoche


Sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết pháp cho cả cộng đồng và nhiều cá nhân, 84.000 Pháp, cho đến khi Ngài nhập Niết Bàn. Bài Pháp đầu tiên của Ngài là về Tứ Diệu ĐếBát Chánh Đạo, đây là nền tảng của tất cả những sự phát triển tâm linh. Bài Pháp thứ hai của Ngài là Bát Nhã, bài pháp này đã tập trung nhiều hơn vào Tính không. Đây là bài Pháp dành cho chư Bồ Tát. Bài pháp thứ ba của Ngài, tỉ mỉ chi tiết hơn, được giảng cho các vị Bồ Tát, những người có trí tuệ và có khả năng lĩnh hội được Sự thật Tối thượng.

Mật thừa được xây dựng trên Sự thật Tối thượng. Để được nghe giáo lý Mật thừa, ta cần những phẩm hạnh nhất định. Bậc thầy cũng cần những phẩm hạnh nhất định để giảng pháp Mật thừa. Với cả hai phẩm hạnh ấy, ta có thể theo đuổi Con đường này, có khả năng hiểu được Sự thật tối thượngđạt đến Giác ngộ nhanh chóng.

Giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bao gồm cả Kinh điểnMật điển. Kinh điển là những giáo pháp nói chung, ví dụ như về đạo đức, lòng yêu thươngtừ bi, ví dụ những giai đoạn từng bước một. Còn Mật điển được phát triển trong kết quả, ví dụ phương pháp tu tập của Mật thừa – Ta cần phải hoàn thành tất cả những phần thực hành cơ bản trước, sau đó mới tu tập theo phương pháp Mật thừa, đạt đến cảnh giới như cõi Tịnh độ, ở đó có những bậc giác ngộ hay chư Bồ Tát. Đây là kết quả cuối cùng ta phát triển, một cái nhìn rất lạc quan – để thấy được tính chất của cõi này với những chúng sinh ở đó và phát triển những phẩm chất ấy. Trong khi những người khác thấy những mặt tích cựctiêu cực, ví dụ những cái xấu trong cõi luân hồichúng sinh hữu tìnhtừ bỏ những điều tiêu cực, hành giả Kim Cương thừa lại thấy những phẩm chất, những mặt tích cực, và theo đó phát triển những phẩm chất này. Mặc dù ta có thể vẫn thấy những ô nhiễm như giận dữ, thù hận, ghen ghét, ham muốnvô minh, nhưng sự nhận thức của chúng ta về những ô nhiễm này chính là trí tuệ. Sự chuyển biến của sự ô nhiễm đặc trưng thì mang đến trí huệ đặc biệt. Năm trí huệ là sự chuyển hóa của năm sự ô nhiễm.

Sự ô nhiễm, nếu không được nhận thức, thì sẽ tạo nên vô minhđau khổ. Nếu ta có thể nhận ra bản chất của chúng, thì đó trở thành trí tuệ. Sự ô nhiễm đến từ ý thức của chúng ta. Vậy bản thể của ta có khả năng tiềm ẩn để trở thành Pháp thân. Và bản thân sự ô nhiễm có khả năng tiềm ẩn để trở thành Báo thânHóa thân.

Rất nhiều người vẫn nghi ngờ rằng Kim cương thừa là thuộc Phật giáo hay Ấn Độ giáo. Điều này dường như là một lý do để nghĩ rằng Mật thừa Phật giáo bị ảnh hưởng bởi Ấn Độ giáo bởi khi so sánh, chúng có vẻ rất giống nhau.

Trước khi có Đạo Phật, ở Ấn ĐộẤn Độ giáo. Ấn Độ giáotôn giáo của tầng lớp cao nhất trong xã hội gọi là Bà-la-môn, những người thông minh nhất. Họ không thể đồng tình với giáo lý của Phật bởi họ là những người rất thông minh và được giáo dục. Họ có triết lý riêng của họ. Để xoa dịu họ, Đức Phật đã giới thiệu Mật thừa. Quan điểm của Kim Cương thừa tương tự với Ấn Độ giáo nhưng mỗi khía cạnh đều có một ý nghĩa tượng trưng. Để cho những người này hiểu được Sự thật, Đức Phật đã mượn những truyền thống nhất định trong tôn giáo cũ của Ấn Độ, rồi sau đó dẫn họ đến Con đường Chân chính. Ví dụ, lễ hỏa tịnh thực sự là một nghi lễ của người Hindu. Thực tế là, tất cả những nghi quỹ thực hành đều được sửa đổi cho phù hợp với những nghi thức của người Hindu, ngoại trừ thiền địnhtriết học. Những nghi thức này đã được sửa cho phù hợp với môi trường và con người ở đó. Người Hindu làm lễ hỏa tịnh để làm hài lòng các vị thần và thậm chí họ còn hiến tế động vật trong lửa. Đức Phật đã biến đổi mỗi vật thể trong đó thành biểu tượng của những sự si mê của chúng ta, ví dụ như sự hận thù. Lửa tượng trưng cho trí tuệ, sẽ đốt cháy và xóa tan những ô nhiễm đó, do vậy chúng ta có thể hiểu được bản chất của tâm mình.

Phật giáo rất linh hoạt. Những ví dụ có thể thấy ở Tây Tạng, Nhật, Trung Quốc, v.v… Ở Tây Tạng, hình ảnh của Đức Phật được tạo ra theo như vẻ bề ngoài của người Tây Tạngquang cảnh làm nền cũng trông giống như ở đó. Ở Trung Quốc, hình ảnh của Ngài và quang cảnh cũng giống như Trung Quốc, và ở Nhật cũng vậy. Điều đó không có gì là sai cả. Thay vì chỉ sử dụng một hình ảnh trong tất cả các nền văn hóa, đạo Phật đã theo tùy nơi mà thay đổi cho phù hợp.

Giáo pháp Mật thừa có thực sự được nói ra bởi Đức Phật hay được nói ra bởi một vài người hay một vài nhà sư? Những kiểu quan niệm hoặc sự nghi ngờ như vậy vẫn luôn tồn tại ở một số người. Chúng ta không đổ lỗi cho họ bởi Đức Phật đã nói về Đạo ba lần. Lần giảng pháp đầu tiên được lan truyền sâu và rộng, và được biết đến rộng rãi và được gìn giữ đến ngày nay. Mật giáo được truyền cho những bậc có thể trở thành Bồ tát, là những người được chọn lựa. Một số người nghĩ rằng Mật thừa không phải Đức Phật nói ra. Điều này phụ thuộc vào những mức độ khác nhau của trí tuệ. Trong Mật giáo có một số phẩm hạnh đặc biệt, Đức Phật dạy họ Kim Cương thừa.

Tây Tạng, có 102 bộ kinh điển Kangyur, 40 bộ Kinh, 62 bộ về Đại thừa, một nửa trong số đó là về Kim Cương thừa, những điều được Đức Phật trực tiếp nói ra và tất cả được ghi chép lại bằng tiếng Phạn. Kim Cương thừa là sự thực hành cá nhân, vậy nên nó không được phổ biến cho tất cả mọi người. Sự tiếp tục của dòng truyền thừa giáo lý này không còn ở Ấn Độ nữa. Nó chỉ có thể được tìm thấyTây Tạng. Những giáo lý Mật giáo diễn tả rất nhiều vị bản tôn, hiền hòa, nửa phẫn nộphẫn nộ, đơn nhất hoặc hợp nhất. Trong tất cả những dạng khác nhau mà ta có thể thấy, mỗi khía cạnh của vẻ bề ngoài đều có ý nghĩa tượng trưng của nó. Đó là lý do tại sao Kim Cương thừa rất khó để hiểu và để thực hành.

Những bản tôn trong thực hành Kim cương thừa thì có hàng trăm hàng ngàn vẻ bề ngoài phụ thuộc vào mức độ và sự ô nhiễm của mỗi cá nhân. Để thuần hóa mỗi dạng của sự ô nhiễm, ta cần có những dạng bản tôn phù hợp. Những bản tôn này không phải là thần mà là những Báo thân của Đức Phật. Với cái nhìn tối thượng, tất cả bản tôn đều như hư không, bất nhị và thậm chí không còn một vị bản tôn nào nữa.

Mặc dù chính quả tối thượng đều là như nhau, là giác ngộ, nhưng sự khác nhau giữa Kinh điểnMật điển nằm ở phương pháp tu tập. Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định, trì tụng thần chúquán tưởng. Sự quán tưởng là để tịnh hóa thân. Tụng chú là để tịnh hóa khẩu. Thiền định với thực chất cuối cùng của vị bản tôn, là để tịnh hóa ý. Trong mỗi phần tu tập, ta được thực hành với tất cả mọi phần của thân và đây là một phương pháp rất sâu sắc. Nếu ta có thể cúng dàng dù là một chút, ta sẽ nhận được rất nhiều công đức. Thông qua việc quán tưởng, ta có thể tạo ra vô lượng sự cúng dường, như mạn đà lavạn vật, cúng dường cho vô lượng các Đức Phật. Công đức của ta tích lũy được là rất rộng lớn và không thể nghĩ bàn. Phương pháp Kim Cương thừa là rất sâu sắc và có thể tích lũy được nhiều phước đứctrí tuệ vô lượng hơn những phương pháp khác.

Một trong những tính chất của Kim Cương thừa là sự dễ dàng không cần cố gắng nhiều. Qua những cách tiếp cận khác, ta có thể phải cần rất nhiều nỗ lực để đạt tới Giác ngộ, như việc phải ẩn tu ở nơi hoang vắng, dần dần phát triển và tốn rất nhiều thời gianthử thách, trong khi đó Kim Cương thừa thì dễ dàng hơn, phát triển thông qua tâm (tinh thần). Đức Phật đã nói rằng tâm là quan trọng nhất. Tâm tạo ra mọi thứ. Để có khả năng họcthực hành giáo pháp sâu xa này, cần có ba phẩm chất: người đệ tử phải thông tuệ, người thầy phải là bậc giác ngộ thiện xảo, và giáo Pháp phải được phù hợp với căn cơ của mỗi người đệ tử.

Những người khác có thể giảng Pháp theo những gì họ biết, dù nó có phù hợp hay không. Đức Phật nói pháp theo nhu cầu và mức độ của chúng ta, không phải là theo những gì Ngài biết. Đó là tính chất đặc biệt của giáo Pháp của Phật. (Bởi chúng ta chưa giác ngộ,) Chúng ta có rất nhiều cách giải thích và nhiều phương pháp khác nhau để thực hành theo những gì Phật dạy; không chỉ dựa trên một cuốn sách mà là hàng nghìn hàng nghìn cuốn kinh điển. Ta cần phải học hỏitìm kiếm một bậc Đạo sư để giúp đỡ. Chúng ta cần phải chọn một giáo phápáp dụng nó với bản thân mình để đạt được giác ngộ.

 

Nguồn:http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/fondements/general/vajrayana-shangpa1.htm

Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14578)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14018)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14909)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16522)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29808)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16180)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15501)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14838)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14830)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17841)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15530)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38588)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26661)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39586)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50693)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38674)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 34982)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18264)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16424)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42331)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39173)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35547)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17426)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46455)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17101)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28457)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18953)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17549)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17072)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17504)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16486)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16831)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30772)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16905)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18462)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18403)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17348)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18112)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17027)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23413)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16956)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17424)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17612)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17025)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15696)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 17986)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17353)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17147)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 27640)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18127)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16068)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15310)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 22955)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14793)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55045)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14158)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13222)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14128)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
(Xem: 15470)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụtuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
(Xem: 13156)
Với trí tuệ của bậc toàn giác, Đức Phật đã chỉ ra chân lí của sự sống, rằng mọi loài sống trên trái đất này đều có quan hệ hữu cơ, gắn bó khăng khít với nhau...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant