Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật Bi Quan Hay Lạc Quan?

01 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12566)
Đạo Phật Bi Quan Hay Lạc Quan?


Hôm nay chúng tôi xin nói qua và giải thích thêm về bản chất của Đạo Phật để quí Phật tử thấy rõ đạo Phậtbi quan hay lạc quan. Đây là vấn đề mà nhiều người muốn biết, nhưng Phật tử chúng ta đa số vẫn chưa giải nổi. Chúng tôi sẽ nói rõ để quí Phật tử hiểu cho thật đúng với tinh thần của đạo Phật, tránh bị người xuyên tạc, hiểu lầm.

Trước hết, chúng tôi nói đến quan niệmđa số người hiểu lầm cho rằng đạo Phậtbi quan.

Bởi vì trong đạo Phật, quí Phật tử thường nghe Phật dạy rằng: "Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước sông Hằng"...; những câu này xuất phát từ bộ kinh Tạp A Hàm. Trong kinh A Hàm, Phật dạy rằng: "Con người sanh đi tử lại không biết bao nhiêu trăm ngàn muôn ức kiếp mà kể". Mỗi đời, chúng ta chỉ khóc khoảng một ít nước mắt thì gom lại nhiều đời của ta, nhiều đời của người có phải đúng như lời đức Phật đã dạy không? Phật nói nước mắt chúng sanh nhiều như nước bể cả, nước sông Hằng..., là căn cứ trên triệu triệu kiếp luân hồi của nhân loại. Đức Phật muốn nhắc nhở chúng ta ngay chỉ một đời thôi mà chúng ta cũng đã phải đối diện với bao nhiêu chuyện bất như ý, phải gánh chịu nhiều nỗi khổ khác nhau không sao kể xiết, huống là từ đời này sang đời khác. Vì lời dạy này, nên có nhiều người cho đạo Phậtbi quan. Đây là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai. Quí vị thường đọc kinh Phật, ai cũng nhớ bài thuyết pháp đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển. Đó là bài Tứ diệu đế. Trong đó đế thứ nhất là Khổ đế. Thế là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật lại là bài nói về cái khổ. Như vậy có bi quan hay không?

Điểm thứ ba. Nếu quí Phật tử nào tu tập thiền quán theo giáo lý nguyên thủy, tức là quán Tứ niệm xứ: quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán thọ thị khổ, quán pháp vô ngã. Như vậy, trước hết ứng dụng tu là quán thân này nhớp nhúa, quí vị có còn quí thân không? Nếu không quí thân thì có chán đời không? Còn quán thọ là khổ của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khẩu, ý thì rõ ràng chúng ta nhận ra cái khổ khi tai nghe những lời không vừa ý, mắng chửi, thị phi... Song nghe tiếng nhạc du dương thì đâu có khổ, sao đức Phật lại nói nghe cái gì cũng khổ? Lưỡi chúng ta nếm vị đắng cay thì khổ, nhưng đức Phật nói những vị ngon ngọt cũng khổ. Thọ là khổ.

Qua những điểm vừa nêu, chúng ta không hiểu sâu, e rằng chúng ta cũng có thể đồng ý đạo Phậtbi quan. Vậy tất cả đều khổ thì chúng ta phải hiểu thế nào? Nếu không hiểu đúng, quí vị sẽ thấy đạo Phật dạy chưa phải là chân lý.

Phật dạy cảm thọ có ba thứ: thọ khổ, thọ lạc, thọ không khổ không lạc. Nhưng Phật lại dạy chúng ta quán tất cả thọ là khổ. Đây là điều tôi muốn giải thích để quí Phật tử hiểu cho kỹ. Sở dĩ đức Phật nói tất cả thọ đều khổ là vì Ngài căn cứ trên lý vô thường. Ví dụ lưỡi mình vừa nếm một món ăn ngon thì vị ngon đó kéo dài khoảng bao lâu? Ở lưỡi thấy ngon, nhưng qua khỏi lưỡi rồi còn ngon không? Hết ngon. Vậy tất cả cảm thọ dù khổ dù lạc cũng là hiện tướng của vô thường. Mà đã vô thường thì sẽ đi tới bại hoại. Cho nên nó không thật vui, mà chỉ là hiện tượng của khổ thôi.

Ví dụ, như chúng ta đi chợ, xách một giỏ xách nặng. Khi đang xách nặng thì vui hay khổ? Khổ. Rồi có ai đó xách giùm mình, lúc đó khổ hay vui? Vui. Vậy cái vui từ đâu có? Hết khổ thì vui, tạm gọi là vui. Lại như anh em cha mẹ đi xa. Khi xa thì nhớ nhung buồn khổ, đến lúc gặp lại thì vui. Tại sao vui? Vì trải qua cái khổ dài quá nên vui. Vui đó gọi là gì? Vui trong cái khổ chớ có phải vui thật đâu. Bao giờ cái vui cũng nằm trong cái khổ triền miên. Thế nên nó không thật.

Đức Phật nói tất cả cảm thọ đều vô thường, và vô thường là nhân của đau khổ. Ví dụ quý Phật tử thấy người già, người bệnh, người chết là khổ hay vui? Là khổ. Vậy ba thứ già, bệnh, chết là ba tướng khổ. Nhưng trẻ có vui không? Hoàn toàn không. Vẫn có chuyện khóc dài dài. Trẻ vẫn có bệnh, mà mỗi lần bệnh là vui không? Cuộc sống đâu phải lúc nào cũng êm ả thuận tiện. Như vậy, già, bệnh, chết đã không vui; nhưng trẻ, mạnh, sống cũng đâu đã vui thật.

Tất cả chúng ta ở trên đời này bị vô thường bức bách nên đâu thể gọi là vui. Như vậy Phật dạy quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ và quán tâm vô thường có đúng không? Tôi thường nhắc nhở quí Phật tử rằng người thế gian có lối nói không thực tế. Ví dụ một người nam, một người nữ thương nhau thì họ thề thốt "Dù cho biển cạn non mòn... tâm họ cũng không đổi". Nhưng có đổi không? Chỉ một thời gian là thay đổi rồi. Vậy người thề nói thật hay nói gạt? Họ không nói gạt, nhưng giữ không được. Đứng về đạo Phật mà nhìn thì con người thay đổi liên tục không ngừng nghỉ.

Thay đổi có hai chiều, tốt và xấu. Có khi cái dở cái xấu thành cái tốt. Có khi cái tốt lại đổi ra cái xấu, cái thành ra cái hoại, cái hoại ra cái diệt, cái bình thường đến cái tệ. Ngay nơi mình, mình còn không tin được lòng mình luôn ở một chỗ. Cho nên cái gì mình nói là hay, là quan trọng đều không có lẽ thật. Đức Phật dạy tâm tưởng con người cũng là vô thường. Như vậy có bi quan không? Bởi vì hôm nay hứa hẹn với nhau rồi, vì một lẽ gì đó mà không thể thực hiện được làm cho người khác mất tin tưởng, khổ sở, bi quan.

Kế đó Phật dạy quán các pháp vô ngã. Hay gần hơn là quán thân này vô ngã. Tức là ngay thân này cũng không có cái gì là chủ tể, đều do duyên tứ đại sum họp, gọi đó là thân. Và khi tứ đại tan rã thì mất, đâu có gì trường tồn vĩnh viễn. Đã chẳng có cái mình thật thì có nên buồn không? Như vậy có phải là một mặt nữa của bi quan không?

Đức Phật dạy thân này như huyễn như hóa. Nếu căn cứ theo đó mà người ta cho rằng đạo Phậtbi quan yếm thế, có đúng chưa? Rất là hợp lý. Vì vậy ai mới tìm hiểu đạo Phật chút ít, thấy những điều vừa mới nói sẽ cho rằng đạo Phật bi quan, theo đạo Phật buồn quá. Hoặc Phật tử nghe thế rồi thấy cũng đúng, đâm ra bi quan không muốn tu. Đó là bệnh làm cho chúng ta thối tâm.

Giờ đây, tôi nêu thêm một điểm nữa để quí Phật tử suy nghĩ. Thường người bi quan thì dễ chán đời, có khi tự tử nữa. Vậy tại sao nói đạo Phậtbi quan mà lại có những câu như: "Thân người khó được, cho dù nó là nhớp nhúa, là vô thường". Vậy có mâu thuẫn không? Trong Tạp A Hàm, có một bài kinh Phật dạy rằng: "Người ở thế gian khi mất thân này rồi, muốn tìm lại được thân kế, khó như rùa mù tìm gặp bọng cây ở giữa biển". Ở giữa biển cả, có một bọng cây nổi trên mặt nước, dưới đáy biển có con rùa mù một trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Khi trồi đầu lên nó tìm bọng cây để chui vào. Quý vị nghĩ nó tìm đến chừng nào mới gặp. Bởi mặt biển lúc nào cũng có sóng, không sóng to thì sóng nhỏ, biết bao giờ mới gặp bọng cây mà chun vô? Nếu chưa chun được thì lại phải lặn xuống đáy biển trở lại chờ đến trăm năm khác. Vậy thân này quí không? Người Phật tử nếu có việc buồn chán mà tìm đến sự tự hủy diệt mình thì vị Phật tử đó có hiểu đạo chưa?

Quí vị thấy tại sao ban đầu thì chê, sau lại dạy phải quí trọng thân này? Đây là điều mà tôi muốn nêu ra cho quí vị thấy rõ. Ở trong sách nhà phật có câu: "Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhân thân vạn kiếp nan". Thiết thọ tức là cây Trắc (Thiết mộc lan) một ngàn năm mới trổ hoa một lần. Vậy mà còn dễ, chớ mất thân này thì muôn kiếp khó tìm lại được.

Chúng ta thấy trong đạo Phật nhìn sự vật có hai mặt, một mặt chê cái thân này, một mặt lại quí trọng thân này. Tại sao? Tôi ví dụ có người đi biển bị chìm thuyền, sau đó họ bơi ra ngoài vớ được gốc cây mục. Nếu người thông minh phải ôm chặt gốc cây mục này để bơi vào bờ hoặc chờ có người cứu. Lúc ấy, gốc cây mục này đối với chúng ta là quí hay tiện? Rất quí. Vì cần có nó để cứu mạng sống của mình. Khi chúng ta bám được gốc cây mục và nhìn xa xa là bờ, thì chúng ta chần chờ ôm nó hoài đợi đến ngấm nước cây rã, chúng ta chết giữa biển; hay ôm chặt nó mà bơi cho mau tới bờ. Và khi tới bờ rồi có quảy gốc cây mục đi theo không? Nếu có người không làm như vậy thì họ có thông minh chăng?

Thấy vậy để hiểu thấu đáo, cách nhìn của đạo Phật đối với thân này. Thấy nó không quí, không sạch, không đẹp, không thật là chỉ chúng ta một sự thật. Chúng ta thấy những hãng chế nước hoa, chế xà bông thơm để che mất mùi hôigiảm bớt cái thô nhám bẩn thỉu của thân. Nếu nó tự thơm như hoa sen thì đâu cần gì phải nhọc công chế tạo nước hoa, xà bông để giúp cho con người sạch ra, thơm ra bên ngoài. Thế mà vừa xức chút ít nước hoa rồi lại tưởng như mình sạch mình thơm vậy. Đó chỉ là cái tưởng thôi, chớ đâu có thật. Vậy đạo Phật có dạy chúng ta đều chân thật không? Rõ ràng là có.

Trong kinh nói, khi đức Phật mới thành đạo ở dưới cội cây bồ đề, lúc đó có một đám ma quái tới phá. Chúng giả ra những vũ nữ đẹp quyến rũ đẹp đẽ quyến rũ dụ dỗ Ngài trở về cung thọ hưởng an vui. Ngay khi đó Ngài liền nói: "Túi da hôi thúi hãy đi đi, ta không cần các ngươi". Bọn họ xấu hổ lui mất. Vậy đức Phật thấy thân này ra sao? Như cái túi đựng đồ nhơ uế chớ không có gì quí. Cái thấy đó có đúng không? Hoàn toàn đúng.

Đức Phật dạy chúng ta thọ là khổ, tâm là vô thường. Đây là sự thật. Nhưng ở đời chúng ta ít dám nhìn nhận sự thật. Ai chỉ dạy thì mình nói là cần nghe, cần học để tìm chân lý. Nhưng khi họ nói sự thật thì ta lại giận, lại không thích. Quí vị có sợ sự thật không? Giả sử như có ai đó tới nhà đầu năm, nói: "Anh chị mạng sống trong hơi thở", quí vị có buồn không? Buồn chớ. Buồn lắm mà chắc còn giận nữa. Còn đầu năm mà đến chúc tụng: "Anh chị sống trăm tuổi", quí vị có vui không? Vui lắm. Lời nói chúc sống thăm tuổi là lời nói không thật, còn nói anh chị sống trong hơi thởlời nói thật. Thế mà ta đâu có thích nghe. Như vậy không phải chính ta cũng đang chọn sự giả để làm vui là gì?

Nói ra những việc bình thường để quí vị thấy được lẽ thật. Cái lẽ thật mà trong chúng ta ít ai dám nhìn, còn bịa chuyện để tán với nhau. Tới nhà thì kiếm chuyện gì để khen nhau, dù cho có những điều không đáng khen, không thật để khen, khen cho được lòng. Và nếu mình khen cho người vui lòng, thì người cũng khen lại cho mình được lòng. Không ai dám nhìn, dám nói ra sự thật, chỉ là tán dóc với nhau. Nhưng họ lại tin rằng đã nói với nhau toàn những điều chân lý. Nói như vâyï, để thấy cuộc sống của chúng ta không có lẽ thật, mà lại cứ như là đã nói hết sự thật, và sống với sự thật.

Từ đây tôi muốn nhắc nhở với quí vị đạo Phật là đạo thấy như thật, nói như thật. Thấy thế nào nói thế ấy, chớ không có lừa, không có bịp chúng sanh. Tôi hỏi quí vị, mình nói thật và mình nói bịp nhau, cái nào có hại, cái nào có lợi?

Ví dụ người đó xấu, mình nói họ xấu, như vậy nếu người biết nghe lẽ thật thì họ không làm điều bậy nữa. Còn nếu họ xấu mà cứ khen họ, họ tưởng thật càng làm bậy hơn. Vậy thì ai thiệt hại? Còn chúng ta nói sự thật cho họ biết để họ đừng gây thêm tội nữa, đừng làm quấy nữa, chính là chúng ta đang cứu họ.

Tuy nói vậy chớ ít ai dám nói lẽ thật lắm. Hơn nữa, nói sự thật đôi khi đương sự không thèm nghe mà trở lại giận ghét, ngầm hại người cho mình biết sự thật nữa. Người ta thường than: "Ở đời khó quá!" Khó là vì ai cũng sợ sự thật hết. Sở dĩ người ta kết tội đạo Phậtbi quan là vì đạo Phật nói lẽ thật, không lừa người.

Những điều tôi kể ra, có điều nào Phật nói không đúng không? Biết sự thật, nghe sự thật mà người ta nói bi quan, đó là lỗi tại ai? Tại cái điên đảo của con người chớ không phải lỗi tại Phật.

Đã biết thân không quí vì nhơ nhớp, vì không lâu bền, nhưng lại khó được, mất rồi khó tìm. Quí vị có nên suy nghĩ để tìm một hành động đúng cho mình không?

Đức Phật chỉ rõ dù thân không lâu bền, nó nhớp nhúa, nhưng chúng ta phải nương nó để khi thân rã, chúng ta đã tiến, đã an vui. Chúng ta có thân là phương tiện tiến lên để đi đến chỗ an lành. Tuy nó bất tịnh, vô thường, hôi hám, nhưng chính nó sẽ giúp chúng ta tiến tu. Cho nên khi còn có nó, chúng ta nương đó để làm điều gì cho mình, cho người được an vui, lợi ích. Chính điều đó là cái sáng suốt của mình. Ngược lại, như ôm khúc gỗ mục ngoài biển mà không chịu vào bờ, để rã và chìm chết, rõ ràng vô ích. Ngay khi thân này còn mạnh khỏe, chúng ta phải làm gì?

Trong kinh Tạp A Hàm, đức Phật dạy, người Phật tử biết rõ thân nhớp nhúa vô thường, nhưng phải mượn nó để tu cho mau, giống như người bị lửa táp cháy đầu, phải dập tắt liền chớ không thể đội về nhà. Tức là chúng ta phải gắng sức tu, phải biết bòn góp phước đức, để tự cứu mình khi mất thân này. Nếu mất thân này mà còn mang theo nhiều tội ác, phải làm thân chó sói, thì có tu được không? Suốt đời còn giết thêm bao nhiêu mạng nữa?

Thế nên người đi theo chánh đạo trước hết phải giữ năm giới. Giáo lý đức Phật có năm thừa để mọi người nương theo đó mà tu. Thừa thấp nhất gọi là Nhân thừa Phật giáo, tức là dạy người tu đời này làm người xứng đáng, đời sau trở lại cũng làm người xứng đáng. Nhân thừa Phật giáo lấy căn bản năm giới làm gốc, đó là: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu.

Quí Phật tử nghĩ lại xem mình có giữ đủ chưa? Nếu không giữ được thì e rằng tụt xuống khó tìm lại. Như tôi đã nói với quí Phật tử, từ khi quy ygiữ giới không sát sanh, đời sau sanh ra thọ mạng dài, sống lâu. Giữ giới không trộm cướp, đời sau sanh ra giàu có không bị xâm hại. Giữ giới không tà dâm, đời sau sanh ra được thân thể đẹp đẽ. Giữ giới không vọng ngữ, đời sau sanh ra chúng ta được lời nói lưu loát. Giữ giới không uống rượu, ai nghe cũng thương cũng quí, đời sau sanh ra được trí tuệ thông minh.

Năm giới đó nếu giữ được trọn đời này là tốt. Đời sau sanh ra đủ năm điều kiện đó có phải là hạnh phúc sung sướng hay không? Chúng ta tu gấp tức là tu theo như chúng tôi vừa nói, để hiện tạiđời sau chúng ta hiện diện trong đời với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp. Còn như tiến hơn chút nữa được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nếu tu Thập thiện thì đời sau được sanh lên cõi Trời cao hơn. Còn nếu tu pháp Tứ đế thì đời sau chúng quả A La Hán, xa hơn nữa là chứng quả Duyên Giác...

Chúng ta chỉ cần tu làm sao cho đúng với chánh pháp, đừng để rơi xuống đường thấp vì mang nhiều nghiệp ác. Quí vị ráng giữ cho tròn. Các Phật tử tự kiểm điểm thấy phần nào thiếu, dở thì ngay bây giờ còn kịp để tu sửa những sai lầm thiếu sót ấy. Vậy phải nên lo sửa cho gấp.

Phật dạy chư Tăng là những vị có trách nhiệm nhắc nhở chỉ bảo cho Phật tử tu, đừng để mất thân này thì khó tìm lại được. Thương Phật tử là phải giảng giải, chỉ rõ cái chân thậtđức Phật đã chỉ, nhắc nhở cách tu sửa thân tâmđức Phật đã tu; chớ không phải hôm nay tới chùa ăn cơm chay, ngày mai tới nhà cúng tụng cầu an cho Phật tử, bửa kia đi thăm... Như vậy không gọi là thương, mà thương chính là làm sao giúp cho Phật tử tiến tu, để đời này được làm người tương đối tốt, đời sau càng tốt hơn. Vì vậy cứu người trong đạo Phật là cứu ngay từ cái nhân, chớ không phải cứu ở cái quả. Song, thường thì cứu quả được người mang ơn, còn cứu nhân lại bị người giận oán.

Ví dụ, có hai người đang gây gỗ sắp đánh nhau. Chúng ta khuyên: "Thôi! Anh hay chị nhịn nhau đi. Gây gổ đánh nhau chỉ khổ thôi, không có lợi lộc gì". Khuyên như vậy nhưng họ không nghe, vẫn cứ đánh nhau đến lỗ đầu, chảy máu. Lúc đó, nếu người nào thấy thương, đến băng bó cho họ thì họ cảm ơn người kia rối rít. Nhưng họ quên rằng dù có cảm ơn người băng bó thì mình cũng đã mang thương tích rồi. Trong khi người khuyên mình lúc ban đầu giữ trọn vẹn, đừng để xảy ra thương tích thì mình đâu biết mang ơn. Quí vị thấy việc nào quí hơn? Đúng ra ta phải cảm ơn và quí trọng người nhắc nhở mình khi chưa xảy ra chuyện đáng tiếc mới phải lẽ, chớ đợi tới chuốc quả rồi mới được cứu thì e đã quá muộn. Dù có cứu được, cũng chỉ đỡ phần nào, chớ làm sao trọn vẹn như buổi đầu.

Hiểu như vậy các Phật tử mới kính trọng quí thầy quí cô xuất gia. Các vị ấy tuy ít làm việc từ thiện xã hội mà lại nhắc nhở, giảng giải khuyên tu nhiều hơn, ấy là vì tu sĩ Phật giáo đặt nặng việc cứu nhân hơn cứu quả. Đôi khi, Phật tử suy nghĩ cảm thấy buồn, cảm thấy đạo Phật không biết thương người, không cứu giúp người. Ví dụ có một người đạp xích lô, mỗi ngày kiếm được chừng ba bốn chục ngàn. Với số tiền ấy, nếu họ quyết tình nuôi gia đình vợ con cũng có thể sống được. Nhưng nếu người đạp xích lô đó ghiền rượu, thì chỉ cần đến quán nhậu sau một ngày đạp xích lô là sạch túi, vợ con ở nhà nheo nhóc đói khát. Có người láng giềng thấy thương, mỗi ngày đem cơm gạo cho, để giúp đở vợ con ông qua cơn đói khát. Việc làm ấy có thể kéo dài mãi được không? Nếu không thì vợ con người đạp xích lô sẽ sống ra sao? Chắc phải chết thôi. Đối với người láng giềng giúp đở đó, chúng ta thấy việc làm ấy là tích cực, là làm phước. Nhưng nếu có một thầy tới khuyên can người đạp xích lô thức tỉnh, bỏ uống rượu, trở lại lo lắng cho gia đình. Như vậy việc làm của thầy so với việc làm của người láng giềng, việc nào có giá trị hơn, có công đức hơn? Khi giảng giải, giúp cho người lầm lỗi thấy được, hiểu được và tự sửa chữa được những khuyết điểm của họ là chẳng những cứu cả cuộc đời của người đó, mà còn cứu luôn gia đình thân quyến của họ. Công đức ấy không thể lấy tiền của mà sánh được. Đó là cứu nhân theo đức Phật dạy.

Hiện nay Phật tử chúng ta thường quên cái nhân, chỉ khi nào gặp quả khổ mới chịu tu. Lúc vui quên Phật, lúc khổ mới nhớ Phật. Như vậy chỉ biết Phật khi khổ chớ không biết Phật khi khỏe mạnh vui tươi. Như vậy đợi đến lúc già yếu, đau đớn mới chịu nhớ tới Phật thì e rằng không còn kịp tu nữa. Vì vậy Phật tử nên hiểu và cố gắng tập tu ngay khi còn trẻ, còn khỏe mạnh thì về sau mới không bị đau khổ bức bách.

Quí Phật tử thấy, từ một người, trăm người, ngàn người cho đến một xóm một làng, nếu ai cũng giữ được năm giới thì xóm làng ấy có thể thành thiên đường không? Trong một xã hội không có ai hại ai, không có ai lừa đảo người, không có người lừa đảo ai... thì xã hội đó, quốc gia đó an lành, đẹp đẽ, văn minh biết chừng nào. Thế nên biết người Phật tử quyết tâm giữ được năm giới là một người xứng đáng đối với quốc gia xã hội, đối với đạo pháp, không những trong hiện tại mà còn xứng đáng hơn nữa ở mai sau.

Trong bài giảng này, tôi không nói những gì cao siêu quá, chỉ nhắc nhở những điều gì quí Phật tử có thể làm được, tu được. Kết quả của quí vị cũng chính là phần khích lệ đối với chúng tôi, dù quí vị tu là tu cho quí vị chớ không phải tu cho chúng tôi Nhưng chỉ cần quí vị giữ cho ba nghiệp của mình ngày càng tốt lành để đời sau được đi lên, chớ không phải tuột xuống là chúng tôi mừng rồi. Chỉ cần Phật tử chịu nghe lời chân thật khuyên bảo của quí thầy, quí cô, không chạy theo sự dối gạt hoa mỹ của thế gian là quí Phật tử biết tu nhân đúng đắn, tránh được quả khổ về sau.

Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ, già có cái chết của già. Nếu không lo tu thì vô thường đến làm sao trở tay kịp. Trên đường tu, chúng ta phải nhìn cho kỹ, thấy cho rõ, đừng lầm lẫn.

Từ trước đến nay chúng ta nói những điều: Thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, hay nước mắt chúng sanh nhiều như nước biển... Tất cả đều cốt chỉ ra lẽ thật của con người cho quí Phật tử thấy rõ. Khi thấu hiểu được lẽ thật của con người cho quí Phật tử thấu rõ được lẽ thật đó rồi, chúng ta mới quyết tâm tu, cố gắng tu, để không bị khổ đau trong đời này và đời sau. Như vậy đạo Phật lạc quan hay bi quan? Vì nói thật nên mới nghe như bi quan, nhưng nhờ thế chúng ta biết lẽ thật để sửa đổi, để vươn lên. Ngược lại nếu lừa dối nhau thì sẽ cùng nhau bị tai họa, bị chìm đắm. Hiểu vậy, tất cả Phật tử mỗi người phải cố gắng theo như lời Phật dạy: Tu như lửa cháy đầu. Phải kiên trì tinh tấn tiến lên. Từ năm giới căn bản tiến dần lên đừng để tuột xuống. Nếu để tuột xuống, lỡ mất thân người thì cả trăm nghìn năm sau khó mong tìm lại. Quí Phật tử nếu siêng năng tu tập sẽ không còn hoang mang lo sợ sống chết. Nếu sắp tắt thở, có người hỏi đi đâu thì nói: Tôi sẽ trở lại làm người tốt hơn, cao quí hơn. Người ấy sẽ được an lành trước khi, trong khi và cả sau khi nhắm mắt. Ngược lại nếu không tu giữ được năm giới thì sẽ hoảng hốt sợ sệt không biết rơi vào đường nào. Thật khổ vô cùng!

Các Thiền sư khi gần nhắm mắt thường mỉm cười từ giã ra đi. Còn kẻ thế gian, lúc gần tắt thở, những người thân chung quanh khóc than thảm thiết khiến cho kẻ ra đi bi lụy luyến tiếc. Còn những người đi trong bơ vơ, trong đau khổ thì còn buồn tủi biết bao nhiêu nữa.

Cho nên chúng ta khuyên cha, khuyên mẹ, khuyên anh, khuyên em ráng tu giữ năm giới làm gốc. Nếu cha mẹ giữ được năm giới thì người con sẽ yên lòng và ngược lại, người con giữ được năm giới thì cha mẹ vui vẻ, nhẹ nhàng biết bao.

Từ đó quí vị thấy việc tu hành thiết yếu đến thế nào. Hồi Phật còn tại thế, sau khi thành đạo rồi, Ngài trở về thành Ca Tỳ La Vệ giảng dạy cho phụ vương (Tịnh Phạn) và hoàng hậu (Ma Ha Ba Xà Ba Đề) năm giới. Sau đó, hoàng hậu phát tâm xuất gia. Bà liền cùng năm trăm vị công nương đi đến chỗ Phật, xin Phật xuất gia. Phật không cho, bà năn nỉ đôi ba phen, Phật cũng không chấp thuận. Lúc đó Tôn giả A Nan thấy vậy xót ruột, mới vào thưa với Thế Tôn: "Hoàng hậu có công lớn với Thế Tôn, từ lúc hoàng hậu Ma Da mất sau khi sanh Thế Tôn có bảy ngày, bà là người nuôi Thế Tôn cho đến lớn khôn, công lao biết bao nhiêu? Sao giờ đây Thế Tôn không cho bà xuất gia? Chẳng lẽ Thế Tôn đã quên ơn người?" Phật trả lời: "Ta không quên ơn mà ta đã đền ơn bà rồi". Ngài A Nan ngạc nhiên hỏi Thế Tôn đền ơn bằng cách nào. Phật nói: "Khi ta thành đạo, trở về thành Ca Tỳ La Vệ, ta đã khuyên, giải thích cho phụ vương và hoàng hậu hiểu được đạo lý, phát tâm qui y Tam bảo, gìn giữ năm giới hạnh. Đó là ta đã đền ơn".

Như vậy người con đền ơn cha mẹ, không gì hơn là lúc cha mẹ còn sanh tiền, khuyên cha mẹ siêng tu, giữ gìn năm giới để khi chết khỏi đọa đường khổ. Đó mới thật là thật thương, thật hiếu; chớ làm ra nhiều tiền chờ lúc chết làm đám ma cho lớn... chưa chắc đã cứu được cha mẹ. Thế đó đâu gọi là thật thương.

Quí Phật tử nghe tôi giải thích rồi, đã thấy tu theo đạo Phậtlạc quan chớ không phải bi quan. Tại sao? Bi quan là buồn, lạc quan là vui. Còn đạo Phật không buồn không vui. Bởi vì đối với thế gian, được thì vui, mất thì buồn, khen thì sung sướng, chê thì giận khổ. Cái vui buồn thế gianvui buồn đối đãi, vô thường, không có sự thật. Mà đã không sự thật thì chúng ta đừng dính, đừng mắc. Song thông thường, ai cũng dễ vui khi được khen, dễ buồn khi bị chê. Nếu chúng ta biết lẽ thật rồi thì có gì vui, có gì buồn. Đạo Phật là đạo chỉ cho chúng ta lẽ chân thật, nhận ra được sự thật rồi, sống đúng như thật. Sống được như lời đức Phật dạy thì đâu còn gì buồn, đâu còn gì phiền não. Ấy là vui.

Phật, người Trung Hoa gọi là Giác; Phật là chỉ cho bậc đã giác ngộ, nên những gì Ngài dạy là lẽ thật từ sự thấy biết của bậc giác ngộ mà ra. Là đệ tử Phật, chúng ta tin những lời của Phật bằng lẽ thật chớ không phải tin theo sự tưởng tượng, ép buộc. Tin rồi chúng ta phải ứng dụng tu để tự cứu mình thoát khỏi cảnh khổ, đồng thời cũng giúp được mọi người cùng vươn lên, tiến lên, không còn bị trầm luân trong sanh tử nữa. Vì vậy, chư Tăng Ni vâng lời Phật dạy, gắng công tu hành, nhắc nhở quí Phật tử. Phần còn lại là phần của quí Phật tử. Tiến lên con đường an vui, tươi đẹp hay rơi xuống nẻo khổ tối tăm, xấu xa là do quí Phật tử tự định đoạt vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1643)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1028)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1507)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1476)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1667)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1924)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1518)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1351)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1369)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1542)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1139)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1271)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1693)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1638)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2984)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1823)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1362)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1219)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1276)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1403)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1317)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1680)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1887)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1814)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2385)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1780)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2112)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2188)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2295)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1850)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1970)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2030)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1953)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2589)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1943)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1880)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1940)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1886)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2155)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2296)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1963)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2074)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1877)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1902)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2406)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2317)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3986)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2471)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3182)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2467)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2043)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1795)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2342)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3021)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2699)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant