Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Đạo đức Phật giáo

11 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10522)
2. Đạo đức Phật giáo


2. ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

Được yêu cầu viết về Đạo đức Phật giáo, chúng tôi thấy ngay tầm quan trọng của vấn đề này cùng tất cả khó khăn của nó. Tầm quan trọng vì chúng ta có thể nói tất các lời dạy của Đức Phật được lưu truyền đến nay đều liên hệ trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề Đạo đức. Khó khăn là chúng ta cần định nghĩa đạo đức Phật giáo như thế nào trước hết cho phù hợp với dụng ý thuyết pháp độ sanh của Ngài, sau để ứng dụng nền đạo đức ấy vào thế giới loài người chúng ta được đặc biệtcon người hiện đại của chúng ta. Một bậc đạo sư không xem thuyết pháp để khoái khẩu biện luận, không phải để chỉ trích người khác (Kinh xà Dụ, số 22, Trung Bộ I), tự nhiên tất cả những lời dạy của Ngài đều có một chủ trương nhất định, đều phản ảnh một hoài bảo độ sanh rõ nét trong từng câu từng chữ.

Khi Ngài tuyên bố: "Này các Tỷ-kheo, xưa cũng như nay ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ", (Trung Bộ I, 140). Lời tuyên bố xác nhận Ngài chỉ dạy cho loài người biết đến khổ và sự diệt khổ trong suốt 45 năm thuyết pháp của Ngài. Chúng ta cũng được biết, trong kinh Chuyển Pháp Luân, bản kinh đầu tiên Ngài thuyết cho 5 vị trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài, Ngài đã tuyên bố: "Đây là khổ. Ðây là khổ cần phải được biết. Ðây là khổ đã được biết. Đây là khổ tập. Ðây là khổ tập cần được đoạn diệt. Ðây là khổ tập đã được đoạn diệt. Đây là khổ diệt, Đây là khổ diệt cần phải chứng ngộ. Đây là khổ diệt đã được được chứng ngộ. Ðây là con đường đưa đến khổ diệt. Đây là con đường đưa đến khổ diệt cần phải hành trì. Ðây là con đường đưa đến khổ diệt đã được hành trì".

Không những vậy Ngài còn khuyên các đệ tử xuất gia của Ngài: "Này các Tỷ-kheo hãy du hành, vì hạnh phúc của quần sanh, vì an lạc cho quần sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người" (Tương Ưng I, 126). Những lời tuyên bố trên của đức Phật nêu rõ hoài bão tha thiết của Ngài là cứu khổ độ sanh, diệt khổ ưu, đem lại hỷ lạc cho tất cả loài hữu tình. Và như vậy chúng ta có thể định nghĩa, đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúcan lạc cho mọi loài chúng sinh, đặc biệtloài người chúng ta. Cần đặc biệt nhấn mạnh: đây là một nếp sống, không phải là những lời dạy luân lý hạnh kiểm cần phải theo một cách máy móc thụ động. Và nếp sống ấy cần phải đem ra hành trì, thực hiện, không phải để lễ bái cầu xin. Có thực hiện người hành trì mới hưởng được hạnh phúc an lạc, thiết thực hiện tại và ngay trong đời này (sandithiko akàliko), có thể thấy biết được (ehipassiko), không phải là một cảnh giới thiên đường xa xăm tưởng tượng.

Một số lời dạy sau đây của đức Phật càng chứng minh rõ những lời dạy của Ngài là hướng tới diệt khổ và đem vui cho chúng sinh: "Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong hiện tại sống đau khổ, với tổn não với ưu não, với nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung được chờ đợi là ác thú. Thế nào là 5? Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có lòng tin, không có lòng xấu hổ, không có lòng sợ hãi, biếng nhác và ác tuệ. Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong hiện tại sống an lạc, không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não và sau hki mạng chung, được chờ đợi là cõi lành Thế nào là 5? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có lòng hổ thẹn, có lòng sợ hãi, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ... "(Tăng Chi II, 11).

Một lời dạy tiếp, càng nhấn mạnh thêm: "Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và đem lại hạnh phúc cho người. Thế nào là 5? Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đầy đủ giới hạnh và khuyến khích người khác đầy đủ giới hạnh. Tự mình đầy đủ thiền định và khuyến khích người khác đầy đủ thiền định. Tự mình đầy đủ trí tuệ và khuyến khích người khác đầy đủ trí tuệ. Tự mình đầy đủ giải thoát và khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát. Tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến và khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát tri kiến. Đầy đủ 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và đem lại hạnh phúc cho người " (Tăng Chi II, 20).

Đề cập đến nguồn suối công đức, nguồn suối an lạc, Đức Phật chỉ rõ thêm: "Có 8 nguồn công đức này, nguồn nước thiện, món ăn an lạc, làm nhân sanh thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, đưa đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc an lạc. Thế nào là 8? Ở đây này các Tỷ-kheo, thánh đệ tử quy y Phật ... quy y Pháp ... quy y Tăng. Này các Tỷ-kheo, đây là nguồn nước công đức, nguồn nước thiện, món ăn an lạc, đưa đến cõi trời, đưa đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc an lạc... vị Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh... đoạn tận lấy của không cho... từ bỏ tà hạnh trong các dục... từ bỏ nói láo ... từ bỏ đắm say men ruợu, rượu nấu... Như vậy vị Thánh đệ tử bố thí không sợ hãi cho vô lượng chúng sinh, bố thí không hận thù cho vô lượng chúng sinh, bố thí không làm hại cho vô lượng chúng sinh... sau khi bố thí cho vô lượng chúng sinh thí không sợ hãi, không hận thù, không làm hại, vị ấy được san sẻ vô lượng không sợ hãi, vô lượng không hận thù, vô lượng không làm hại. Này các Tỷ-kheo, đây là 8 nguồn công đức, nguồn nước thiện, món ăn an lạc, làm nhân sanh thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, đưa đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc an lạc". (Tăng Chi III, 93-95)

Nếu đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng, xác định con người có khả năng đoạn trừ mọi khổ não, chấm dứt sanh tử luân hồi. Lời của Ngài là cả một hình ảnh linh động của một người dựa trên sức mạnh con người, tự mình đi tìm đạo, tự mình tu khổ hạnh, tự mình hành thiền cho đến khi chứng quả, không nhờ một ai, không ỷ lại một thần lực nào. Khi đến tìm đạo với Ngài Alarakalama, vị đã chứng thiền vô sở hữu xứ, Ngài suy nghĩ: "Không phải chỉ Alarakalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin, Không phải chỉ Alarakalama có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ Alarakalama có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ Alarakalama có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ Alarakalama có tuệ, Ta cũng có tuệ". Với những suy nghĩ như vậy, và với khả năng tự lực, tự cường, Ngài kiên trì tu tập và chứng được quả Vô sở hữu xứ như Alarakalama đã chứng. Tiếp đến là tu khổ hạnh trong 6 năm, Ngài tự mình hành trì trong rừng sâu núi thẳm. Ngài đã tự diễn tả: "Này Sàriputta, Ta đầy đủ bốn hạnh: về khổ hạnh, Ta khổ hạnh đệ nhất. Về bần uế, Ta bần uế đệ nhất. Về yểm ly, ta yểm ly đệ nhất. Về cô độc, Ta cô độc đệ nhất" (Trung Bộ I, 76). Khi Ngài tự chứng niệm trên bản thân rằng khổ hạnh không đưa đến giác ngộ, Ngài liền rời bỏ khổ hạnh, hành trì thiền định, chứng được sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, chứng được Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh, giải thoát khỏi các lậu hoặc, thành bậc Chánh đẳng, Chánh giác.

Như vậy đời Ngài từ khi tầm đạo đến khi giác ngộ, chứng minh một cách cụ thể rằng, với thân con người với ý trí nỗ lực con người, không nhờ vả ỷ lại một ai, Ngài đã được cứu cánh phạm hạnh tối thượng. Ngài chứng minh rằng, không quá đau khổ trong cảnh giới địa ngục, không quá sung sướng trong cảnh giới chư Thiên, chỉ với thân con người, tuệ tri được đau khổ để vượt qua đau khổ, tuệ tri được lạc để giải thoát khỏi thiên lạc, đạt được giải thoát lạc để thành bậc Chánh giác

Không những Đức Phật với ý trí tự lực của con người, đạt được mục đích giải thoátgiác ngộ, Ngài còn hướng dẫn các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni sử dụng tự lực của con người. Trong Ðại kinh Vacchagotta số 73, Trung Bộ II, khi được vị Bà-la-môn hỏi có đệ tử nào của Ngài cũng được giác ngộ như Ngài, Đức Phật đã xác nhận như sau: "Này Vacchagotta, không phải chỉ có một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà còn nhiều hơn thế nữa là những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni của ta đã được đoạn trừ các lậu hoặc với thượng trí, tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát ... không phải chỉ có một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà còn nhiều hơn thế nữa là những nam cư sĩ, nữ cư sĩđệ tử sống tại gia mặc áo trắng, theo phạm hạnh sau khi đã đoạn trừ 5 hạ phần kiết sử được hóa sanh, chứng Niết-bàn tại chỗ ấy không còn trở lui lại lời này nữa... không phải chỉ có một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà còn nhiều hơn thế nữa là những nam cư sĩ, nữ cư sĩđệ tử sống tại gia mặc áo trắng, hưởng thụ vật dụng nhưng xây dựng Thánh giáo, chấp nhận giáo huấn, chứng đắc vô sở uý, không dựa vào người khác, sống trong Thánh giáo của bậc Đạo sư" (Trung Bộ II, 235-238, bộ mới).

Như vậy đạo đức Phật giáo là một nếp sống đề cao vị trí con ngườichứng minh rằng con người có khả năng đạt đến giải thoát tối thượng, nếu con người có đủ ý trí và nỗ lực của con người, nếu con người tăng trưởng được niệm lực, định lực và thiền lực của con người, nếu con người phát huy được tuệ lực giải thoát lực của con người

Bước thêm bước nữa, đạo đức Phật giáo là một nếp sống thanh tịnh, trong sạchlành mạnh, vì chỉ có một đời sống thanh tịnh mới bảo đảm được đời sống hạnh phúc. Trong kinh Ví dụ Tấm vải (Trung Bộ I, số 7), đức Phật xác nhận một tấm vải cấu uế đem nhuộm sẽ đươc một màu nhuộm không tốt đẹp. Cũng vậy cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế. Trái lại một tấm vải thanh tịnh trong sạch đem nhuộm sẽ được một màu nhuộm tốt đẹp. Cũng vậy cõi thiên chờ đợi một tâm không cấu uế. Như vậy hạnh phúc chỉ đến với một tâm trong sạch, không đến với một tâm cấu uế. Rồi Đức Phật kể 16 cấu uế tâm, trong ấy tham sân si là chính, cần phải tẩy sạch và đoạn trừ, nhờ lòng tịnh tín bất động đối với ba ngôi báu, nhờ chứng được nghĩa tín thọ và pháp tín thọ. Từ nơi đây, hân hoan liên hệ đến pháp sanh khởi; từ hân hoan, hỷ khởi lên. Từ hỷ, thân được khinh an. Thân khinh an, cảm giác được lạc thọ. Với lạc thọ, tâm được thiền định (Trung Bộ I, 37A-37B). 

Muốn chứng được thiền định, phải loại trừ năm triền cái được xem nhưcấu uế của tâm, thay thế bằng năm thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, và nhất tâm. Muốn chứng quả A-la-Hán, phải đoạn trừ ba lậu hoặc: Dục lậu, hữu lậu vô minh lậu; phải tẩy sạch mười kiết sử: Thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham, sân, sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cửvô minh. Cũng phải đoạn trừ 7 tùy miên: tham tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên; và các triền cái, kiết sử, lậu hoặc, tùy miên được xem như cấu uế của tâm. Và như vậy, một tâm trong sạch chờ đợi là hạnh phúc an lạc, một tâm cấu uế chờ đợi là đau khổ, sầu muộn. Nói đến cấu uế tức là nói đến bất thiện, nói đến trong sạch tức là nói đến thiện lành. Như vậy đạo đức Phật giáo cũng là một nếp sống từ bỏ bất thiện, thực hiện điều lành, như biết bao lời dạy của đức Phật về vấn đề này. Chúng ta đều nhớ câu:

"Không làm mọi điều ác, 
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy". 
(Pháp Cú 183)

Số phận chờ đợi kẻ ác và bậc thiện được phân biệt rõ ràng:

"Một số sinh bào thai
Kẻ ác sinh địa ngục;
Người thiện lên cõi trời
Vô lậu chứng Niết-bàn. 
(Pháp cú 126)

Hay câu:

"Ác hạnh không nên làm, 
Làm xong chịu khổ lụy;
Thiện hạnh ắt nên làm, 
Làm xong không ăn năn". 
(Pháp cú 319)

Sự sai khác giữa người ác và bậc lành cũng được phân biệt rõ ràng:

"Người lành dù ở xa, 
Sáng tỏ như núi tuyết;
Kẻ ác dù ở đây, 
Cũng không hề được thấy, 
Như tên bắn đêm đen". 
(Pháp cú 309)

Khi được du sĩ Vacchagotta yêu cầu giảng vắn tắt các pháp thiện và các pháp bất thiện, thế tôn phân tích rõ ràng như sau: "Tham là bất thiện, sân là bất thiện, si là bất thiện; vô tham là thiện, vô sân là thiên, vô si là thiện. Như vậy ba pháp là bất thiện, ba pháp là thiện. Sát sanhbất thiện, từ bỏ sát sanh là thiện. Lấy của không cho là bất thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện. Tà hạnh trong các dục là bất thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện. Nói láo là bất thiện, từ bảo nói láo là thiện. Nói hai lưỡi là bất thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện. Nói ác khẩubất thiện, từ bỏ nói ác khẩu là thiện. Nói lời phù phiếmbất thiện, từ bỏ nói lời phù phiếm là thiện. Xan thambất thiện, từ bỏ xan tham là thiện. Sân là bất thiện, từ bỏ Sân là thiện. Tà kiếnbất thiện, từ bỏ tà kiến là thiện. Như vậy này Vacha, mười pháp là bất thiện, mười pháp là thiện". (Trung Bộ II, 135 bộ mới). 

Trong kinh Song Tầm, Trung Bộ I, số 19, đức Phật phân chia các Tầm ra hai loại: Dục tầm, sân tầm, hại tầm thuộc bất thiện tầm, vì các tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn. Ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm thuộc thiện tầm, vì các tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, hướng đến Niết-bàn. Vì sao có sự phân biệt này? Đức Phật nêu rõ: "Ta thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các pháp thiện ". (Trung Bộ I, 116). Ở đây chúng ta hiểu vì sao Đức Phật khuyên chúng ta:

"Chớ thân với bạn ác, 
Chớ thân kẻ tiểu nhân
Hãy thân người bạn lành, 
Hãy thân bậc thiện nhân
(Pháp cú 78)

Hay câu:

"Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác
Sẽ chói sáng đời này, 
Như chăng thoát mây che"
(Pháp cú 73)

Đức Phật dùng một hình ảnh tuyệt đẹp để diễn tả sự sai khác giữa pháp của bậc thiện và pháp của kẻ ác: "Thật là xa, thật xa, khoảng cách giữa mặt đất và bầu trời. Thật là xa, thật xa, khoảng cách bờ biển bên này với bờ biển bên kia. Thật là xa, thật xa, khoảng cách chỗ mặt trời lặn và chỗ mặt trời mọc. Nhưng còn cách xa, cách xa hơn nữa là khoảng cách giữa pháp của bậc thiện và pháp của kẻ ác". Đạo đức Phật giáo là một nếp sống trong sạch và chánh thiện. Vì thế nếp sống ấy phải là nếp sống tôn trọng sự thật, không có quanh co lừa dối. 

Trong 16 pháp cấu uế của tâm, những tâm như hư ngụy, man trá, lường gạt, đều được xem là cấu uế của tâm. Trong 5 tinh cần chi của người thiện nam tử muốn tu tập theo chánh pháp, tinh cần chi thứ ba xác định vị thiện nam tử không có man trá, không có lường gạt, xử sự như chơn với một bậc đạo sư, đối với các bậc có trí, đối với các đồng phạm hạnh. Trong 5 giới tu tại gia, có giới không nói láo, yêu cầu các Phật tử phải biết tôn trọng sự thật. Đặc biệt trong bài kinh danh tiếng Giáo giới La Hầu La ở rừng Ambalatthika, số 61, Trung Bộ kinh, Đức Phật đã nhấn mạnh những tai hại của cố ý nói láo, không có tàm ý. Trước hết, Đức Phật chỉ cho La Hầu La rõ là sa môn hạnh người nào biết mà nói láo không có sự xấu hổ sợ hãi, là giống như một ít nước còn lại trong chậu nước, như một ít nước ấy bị đổ đi, như chậu nước ấy bị lật úp lại, như chậu nước ấy trống không khi lật ngửa trở lại. Rồi Đức Phật dùng ví dụ con voi lâm trận. Nếu con voi này dùng hai chân trước, hai chân sau, phần thân trước, phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà, dùng đuôi nhưng bảo vệ cái vòi, thời con voi này là được xem không ném bỏ mạng sống của mình. Trái lại con voi nào khi lâm trận dùng hai chân trước, hai chân sau, phần thân trước, phần thân sau, dùng đầu, dùng tai, dùng ngà, dùng đuôi và dùng luôn cái vòi thì con voi này được xem là ném bỏ mạng sống của mình và con voi ấy không có việc gì mà không làm. Và Đức Phật đưa đến kết luận: "Cũng vậy, này La Hầu La, đối với ai biết mà nói láo, không có tàm quý, thời ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm. Do vậy này La Hầu La, ta quyết không nói láo, dù nói để mà chơi". (Trung Bộ II, 122-124). Tánh tôn trọng sự thật cũng được biểu lộ rõ nét, khi người người hành giả dùng trí tuệ như thật để quan sát sự vật, tiến đến Như thật trí, Lậu tận trí để được giải phóng giác ngộ. Chúng ta hiểu rõ vì sao Đức Phật dùng đề tài "4 sự thật", để mở đầu cuộc chuyển pháp luân của Ngài, vì giác ngộ là gì nếu không phải là liểu tri bốn sự thật "khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế" đang chi phối con người và thế giới?

Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đi đôi với lạc, không đi đôi với khổ, đề cao một kinh nghiệm bản thân của Đức Phật, là đau khổ không đưa đến giải thoát. Vương tử Bồ Ðề trong kinh số 85, Trung Bộ II, đã đến bày tỏ cảm nghĩ của mình: "Lạc được chứng đắc không phải do lạc, lạc được chứng đắc do khổ" (Trung Bộ II, 403). Đây cũng là quan điểm của các Ni Kiền Tử, khi các vị này tu khổ hạnh để thiêu đốt các nghiệp ác quá khứ và khi các vị này tuyên bố: "Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc phải thành tựu nhờ đau khổ" (Trung Bộ I, 94A). Quan điểm Đức Phật khác hẳn, khi Ngài đã có kinh nghiệm 6 năm khổ hạnh của mình. Và lời dạy hay pháp môn nào của Ngài cũng đem lại an lạchạnh phúc cho người hành trì

Trước hết, Ngài so sánh hai loại lạc: lạc được Đức Phật gọi là lạc như phân, tức là thụy miên lạc, lợi dưỡng lạc, cung kính lạc, danh vọng lạc (Tăng Chi I, 334-335), mà Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài tránh xa. Ngài đề cao lạc của các bậc Thánh là viễn ly lạc, an ổn lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, Niết-bàn lạc. 

Ngài khuyên các đệ tử Ngài thường đi nghe pháp để hưởng được pháp lạc, thường ngày hành thiền để hưởng được thiền lạc, thường giữ gìn 5 giới, tu tập bát quan trai giới để hưởng được thanh tịnh lạc, an tịnh lạc. Ngài gọi hành thiền là pháp môn hiện tại lạc trú, tức là đem lại hỷ lạc hiện tại cho những vị hành thiền. Sơ thiền đem lại hỷ lạc do ly dục sanh. Thiền thứ hai đem lại hỷ do định sanh. Thiền thứ ba đem lại xả niệm lạc trú. Thiền thứ tư đem lại xả niệm thanh tịnh. Như vậy người hành thiền làm cho sung mãn tràn đầy hỷ lạc do định sanh, không có chỗ nào trên toàn thân là không do hỷ lạc ấy thấm nhuần . Một nếp sống đề cao an lạc như vậy, nhưng không hiểu sao có người lại hiểu lầm Phật giáobi quan. yếm thế, trong khi đúng lý người Phật tử phải là người lạc quan nhất đời, luôn luôn được thấm nhuần pháp lạc, thiền lạc, viễn ly lạcan tịnh lạc.

Một đặc điểm khác của đạo đức Phật giáo là đề cao một nếp sống giải thoát mọi ràng buộc, mở đầu là các ràng buộc đối với các dục trưởng dưỡng. Đức Phật thường hay chỉ rõ sự nguy hiểm của dục: "Sợ hãi, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục. Bệnh, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục ... Cục bướu ... Tham dính . . Bùn lầy, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục". Và này các Tỷ-kheo vì sao sợ hãiđồng nghĩa với các dục? Này các Tỷ-kheo, say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi các ham muốn, ngay trong hiện tại không thoát được sợ hãi, đời sau cũng không thoát khỏi sợ hãi. Do vậy sợ hãiđồng nghĩa với dục. (Tăng Chi II, 309).

Trong Tiểu kinh Khổ uẩn, Trung Bộ số 14, Đức Phật dạy cho Mahanàma rõ vì sao tuy vẫn biết tham, sân, si là cấu uế của tâm, nhưng tham sân si vẫn thỉnh thoảng khởi lên, Ngài dạy: "Này Mahanàma, vì pháp ấy trong ngươi chưa được đoạn trừ nên ngươi sống trong gia đìnhthọ hưởng các dục". Đức Phật giải thích rõ thêm: "Này Mahanàma, khi nào các vị Thánh đệ tử, khéo thấy như vậy với như thật chánh trí tuệ: 'Các dục vị ngọt ít, khổ nhiều não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn, ' và vị này chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy vị ấy không bị các dục chi phối ". (Trung Bộ I, 92-92B).

Ở đây chúng ta thấy trí tuệ đi đôi với thiền định mới có khả năng giải thoát được lòng dục của con người, và chúng ta mới hiểu rõ vì sao Đức Phật dùng danh từ tâm giải thoát, tuệ giải thoát để diễn tả một vị được giải thoát giác ngộ, vì tâm giải thoátgiải thoát nhờ thiền địnhtuệ giải thoátgiải thoát nhờ trí tuệ. Hai giải thoát này cộng lại với nhau mới là một sự giải thoát toàn diện.

Một điểm nổi bật trong đạo đức Phật giáovai trò trí tuệ trong tất cả các pháp môn đưa đến giải thoátgiác ngộ. Như vậy cũng dễ hiểu, vì trí tuệ mới có công năng đoạn trừ các ác bất thiện pháp, các lậu hoặc các kiết sử, các tùy miên vv... và vì vậy trong mọi pháp môn Phật dạy đều có vai trò nổi bật của trí tuệ. Trong ba vô lậu học giới-định-tuệ, trí tuệ đóng vai trò tuệ tri khổ, khổ tập, khổ diệt, con đường đưa đến khổ diệt; tuệ tri các lậu hoặc, các lậu hoặc tập khởi, các lậu hoặc đoạn diệt, con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt. Nhờ tuệ tri như vậy nên nhàm chán sanh, do nhàm chán nên ly tham, do ly tham đưa đến đoạn diệt, đưa đến tâm giải thoáttuệ giải thoát. Trí tuệ với khả năng giúp phân biệt đâu là pháp thiện, đâu là pháp bất thiện, đâu là pháp đen, đâu là pháp trắng, đâu là thanh tịnh, đâu là cấu uế, đâu là chánh pháp, đâu là tà pháp. Nhờ sự phân biệt này chúng ta mới có thể từ bỏ các pháp ác, thành tựu các pháp lành. Chính nhờ trí tuệ, chúng ta tuệ tri được vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của các dục. Đức Phật xác định: "Này các Tỷ-kheo, những sa môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này sẽ như thật tuệ tri các dục của chúng, chúng có thể đặt người khác trong địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri cácdục, sự kiện như vậy có xảy ra" (Trung Bộ I, 87C). Trong 37 pháp trợ đạo, pháp môn nào cũng có trí tuệ. Trong bốn niệm xứ, có quán pháp trên các pháp đối với 5 triền cái, 5 thủ uẩn, 6 nội xứ ngoại xứ; trong 5 căn, 5 lực, có tuệ căn, tuệ lực; trong 7 giác tri có trạnh pháp giác chi; trong 8 chánh đạo, có chánh tri kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ.

Tác động của trí tuệ trong tiến trình giải thoát phong phú và đa dạng đến nỗi có nhiều danh từ khác nhau để đặt tên cho các trí. Như thức tri biết ngang qua thức, tưởng tri biết ngang qua tưởng, ý tri biết ngang qua ý, thắng tri biết ngang qua thiền, tuệ tri biết ngang qua trí tuệ, liễu trihiểu biết của một vị đã giải thoát

Trong kinh Canki, số 95, Trung Bộ, Đức Phật diễn tả quá trình đi tìm chân lý nhờ trí tuệ. Quá trình này gồm có 15 giai đoạn. Trước hết là đi tìm minh sư, tìm một vị không có tham pháp, sân pháp, si pháp, không có những hành động thân, miệng, ý bị tham sân si chi phối. Khi vị ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu khó thấy, tế nhị, không thể do một người có tham sân si thuyết giảng. Đến đây vị ấy khởi lên niềm tin, và tiến trình 14 pháp được diễn tả như sau: "Vị ấy sinh lòng tin đối với vị minh sư ấy. Với lòng tin sanh, người này đến gần, khi đến gần liền thân cận giao thiệp. Do thân cận giao thiệp, nên lóng tai. Lòng tai người ấy nghe pháp. Sau khi nghe liền thọ trì pháp. Rồi tìm hiểu ý nghĩa của pháp được thọ trì. Trong khi tìm hiểu ý nghĩa, các pháp được hoan hỷ chấp nhận. Khi các pháp được hoan hỷ chấp nhận, ước muốn sanh. Khi ước muốn sanh liền có cố gắng. Sau khi cố gắng liền cân nhắc. Sau khi cố cân nhắc, người ấy tinh cần. Trong khi tinh cần người ấy tự thân chứng ngộ tối thượng chân lý. Và sau khi thể nhập chân lý ấy, với trí tuệ, vị ấy thấy. Cho đến mức độ này là sự giác ngộ chân lý". (Trung Bộ II, 519, bộ mới) như vậy trí tuệ trong tiến trình giác ngộ chân lýyếu tố căn bản để được giác ngộgiải thoát.

Một đặc điểm nữa của Đạo đức Phật giáoxây dựng một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và làm cho môi trường sống vừa lành, vừa đẹp. Chúng ta thấy Đức Phật sản sanh ở ngoài trời, dưới một gốc cây, thành đạongoài trời, dưới một gốc cây, thuyết pháp lần đầu tiên ở ngoài trời, ở tại vườn nai, và thị tịch cũng ở ngoài trời, dưới gốc cây Ta La Song Thọ. Đời sống của các vị xuất gia, đại đệ tử của Ngài cũng thường là đời sống trong rừng núi, xa chốn thị thành, và hiện các hang động còn lại như động Ajanta, Ellora, Kanheri đều nằm sâu trong núi thẳm, xác định đời sống đạo đức tu hành bao giờ cũng hài hòa với thiên nhiên, với núi rừng. Ở Việt Nam chúng ta, chùa Yên tử, chùa Hương được xây dựng cheo leo trên núi đá, hoặc ẩn sâu trong rừng rậm. Cũng như phần lớn chùa chiền Việt Nam, chùa nào cũng có vườn cảnh, vườn hoa cũng có hòn non bộ, cũng có hồ nước, có các loại cá bơi qua bơi lại. Những hình ảnh này chứng minh một điều là đời sống của các nhà xuất gia theo Đạo Phật được sống trong môi trường thiên nhiên trong sạch, hài hòa với những cảnh xung quanh, tĩnh tâm hài hòa với tĩnh vật, trăng sao soi sáng thiền tâm. Có một hình ảnh được diễn tả trong kinh Tăng Chi II, tr 336, nói nên cảm hứng của Đức Phật, khi ngài cảm thấy một mình sống giữa vũ trụ bao la: "Những khi ta đang bước trên con đường, trước mặt ta không thấy ai, sau lưng ta không thấy ai, cho đến khi ấy ta cảm thấy yên ổn".

Trong bài kinh sau đây, chúng ta thấy Đức Phật an tâmhoan hỷ khi thấy vị Tỷ-kheo sống ở trong rừng, dù đang ngủ gục hoặc không thiền định. Trái lại Ngài không an tâm khi thấy vị Tỷ-kheo ngồi thiền định ở trong một ngôi chùa gần làng xóm, vì vị này ở gần xóm làng có thể bị các sa di hay các cư sĩ đến quấy rầy không cho tu thiền định. Còn vị Tỷ-kheo có ngủ gục ở trong rừng, hết ngủ gục rồi ngồi thiền lại, không có ai phá phách:

"Ở đây, này Nàgita, ta thấy một Tỷ-kheo ngồi thiền định tại trú xứ ở cuối làng. Này Nàgita, về vị ấy, ta suy nghĩ như sau: Này có người coi khu vườn hay người sa di phá phách vị Tôn giả ấy, làm cho vị ấy xuất khỏi thiền định. Do vậy, này Nàgita, ta không có hoan hỷ với trú xứ của vị ấy.

"Ở đây, này Nàgita, ta thấy một Tỷ-kheo đang ngồi ngủ gục ở trong rừng. Này Nàgita. Ta suy nghĩ về vị ấy như sau: Nay vị Tôn giả này, sau khi đoạn trừ ngủ nghỉ về mệt nhọc, sẽ tác ý tưởng rừng hoặc đạt được nhất tâm'. Do vậy này Nagita, ta hoan hỷ với trú xứ tại rừng của vị Tỷ-kheo ấy". (Tăng Chi II, 335-336).

Đạo đức Phật giáo đã là một nếp sống hài hòa với thiên nhiên thời cũng là một nếp sống hài hòa với con người. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi được Dandapàni hỏi Ngài có quan điểm thế nào và giảng dạy những gì, Đức Phật đã trả lời: "Theo lời dạy của ta, trong thế giới với chư thiên, ác maphạm thiên, với các chúng sa môn, Bà-la-môn, chư Thiênloài người, không có tranh luận với một ai ở đời (Trung Bộ III, 109, 109A). Một câu tuyên bố nữa nói nên thái độ không tranh chấp của Đức Phật:

"Này các Tỷ-kheo, Ta không có tranh chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với Ta. Này các Tỷ-kheo, Người nói pháp không tranh chấp với một ai ở đời". (Tương Ưng III, 165).

Đức Phật nêu rõ các dục là nguồn gốc của xung đột và chiến tranh, và do vậy Ngài dạy các đệ tử phải dùng trí tuệthiền định để chế ngự các dục: "Này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua... mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha... " (Trung Bộ I, 87). Một nguyên nhân nữa của đấu tranh và xung đột là sự so sánh giữa mình và người, xem các người khác là bằng mình hay hơn mình, hay thua mình. Do vậy Đức Phật dạy:

"Bằng, thắng hay thua ta, 
Như vậy đấu tranh khởi;
Cả ba không giao động
Bằng, thắng không khởi lên". 
(Tương Ưng I, 15)

 Phương pháp hay nhất để tránh xa tranh luậnxung đột là không cho khởi lên các hý luận, vọng tưởng, các tà kiến. Và trong trường hợp chúng khởi lên, thời thái độ tốt nhất là chớ có hoan hỷ, đón mừng và chấp thủ chúng. Đức Phật dạy: "Này các Tỷ-kheo, do bất cứ nguyên nhân gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì đáng hoan hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở đây những ác bất thiện pháp này đều được tiêu diệt không có dư tàn". (Trung Bộ I, 110). Chiến tranh xảy ra đem đến đau khổ vô lựơng vô biên cho mọi người. Chiến thắng sanh thù oán, bại trận chịu khổ đau cho nên phương pháp hay nhất là đừng nên dùng chiến tranh dể giải quyết các xung đột, phải dùng các phương pháp hòa bình để chấm dứt các bất đồng ý kiến và các xung đột. Do vậy các bậc Thánh đã từ bỏ gia đình, chấm dứt mọi tranh luận với bất cứ một ai. Lời Đức Phật nhắn nhủ:

"Thắng trận sinh thù oán
Bại trận nếm khổ đau. 
Ai bỏ thắng bỏ bại, 
Tịch tịnh hưởng an lạc". 
(Tương Ưng, 102)

"Bậc Thánh bỏ gia đình
Du hành không trú xứ, 
Đối với dân trong làng, 
Không tác thành hệ lụy
Tuyệt không các dục vọng
Không ước vọng hão huyền
Chấm dứt mọi tranh luận
Bất cứ với một ai". 
(Tương Ưng III, 14)

 Khi Đức Phật thành lập Tăng đoàn đầu tiên, Ngài chú tâm chế đặt một số giới luật căn bản để bảo đảm một đời sống hòa hợp nhất trí giữa chư Tăng. Do vậy, Ngài dạy 6 pháp cần phải ghi nhớ hay 6 pháp hòa kỉnh, để xây dựng tình tương thân tương ái giữa chúng sanh, sống với nhau hòa hợp như nước với sữa, nhìn nhau với cặp mắt ái kính: "Có 6 pháp cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp nhất trí. Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ thân hành... từ khẩu hành... từ ý hành đối với các vị phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng. Lại nữa này các Tỷ-kheo, đối với các tài vật nhận được đúng pháp, hợp pháp cho đến các tài vật thâu nhận trong bình bát, Tỷ-kheo không phải là người không san sẻ các tài vật thu nhận được như vậy, phải là người san sẻ dùng chung với các vị đồng phạm hạnhgiới đức ... Lại nữa này các Tỷ-kheo, đối với các giới luật không vi phạm, không có tỳ vết, không có vẩn đục, không có uế tạp, giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu trong các giới luật ấy với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng... Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các tri kiến thuộc bậc thánh, có khả năng hướng thượng, khiến người thực hành chấm dứt khổ đau, Tỷ-kheo thành tựu tri kiến như vậy cùng với các vị đồng phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng... " (Trung Bộ I, 321B).

Khi chúng Tăng tranh cãi, đấu tranh nhau, Đức Phật đã có lời khiển trách thẳng thắn và quyết liệt: "Này các Tỷ-kheo, các ngươi nghĩ thế nào? Trong khi các ngươi sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, trong khi ấy các ngươi có an trú từ thân hành... từ khẩu hành... từ ý hành đối với các vị đồng phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng không? Bạch Thế Tôn, không.... Như vậy này các người ngu kia, do biết gì, do thấy gì các ngươi sống cạnh tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, và các ngươi không thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm, không tự hòa giải nhau, không chấp nhận hòa giải. Như vậy này các người ngu kia, các ngươi sẽ phải chịu bất hạnh đau khổ trong một thời gian dài" (Trung Bộ I, 321A-321B).

Một pháp môn Đức Phật thường hay dạy để nuôi dưỡng lòng thương người thương vật cho người Phật tửpháp môn bốn vô lượng tâm (4 phạm trú) được diễn tả như sau: "Vị ấy an trú, biến mãn một phương với lòng từ... lòng bi... lòng hỷ... lòng xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân. "(Trung Bộ I, 38).

Chính bấn vô lượng tâm này đoạn được hiềm hận, nhờ lòng từ đoạn được lòng sân, nhờ lòng bi đoạn được hại tâm, nhờ hỷ đoạn được tâm không lạc, nhờ tâm xả đoạn được hận thù: "Có 5 trừ khử niềm hận này, ở đây vị Tỷ-kheo có hiềm hận khởi lên, cần phải trừ khử một cách hoàn toàn... trong người nào hiềm hận được sanh, trong người ấy, từ cần phải tu tập... bi cần phải tu tập... xả cần phải tu tập... vô niệm vô pháp ý cần phải tu tập... trong người ấy, kiện nghiệp ấy do mình tạo ra cần phải được an lập" (Tăng Chi II, 194-195). Như vậy tâm từ của đạo Phật mở rộng đến tất cả chúng sinh, kể cả các loài côn trùng nhỏ bé, các loài cây cỏ hữu tình.

Đặc tính cuối cùng của Đạo đức Phật giáo là một nếp sống vô ngã, một triết lý uyên thâm vi diệu, vừa giúp con người tự chủ, thoát ly sự chi phối của thân người và thế giới, vừa vượt qua được các khổ đau, sầu muộn, do tánh vô thường của tự ngã và thế giới gây ra, vừa là con đường đưa đến tâm giải thoáttuệ giải thoát

Trước hết Đức Phật nêu lên 6 kiến xứ của con người như đã được trình bày trong Kinh Xà Dụ (22, Trung Bộ). Tức xem sắc, thọ, tưởng, hành thức là của ta, là ta, là tự ngã của ta, và xem tự ngã và thế giới sau khi chết, ta sẽ thường hằng, thường tồn mãi mãi. Trước hết, Đức Phật phân biệt giữa người phàm phu ít nghe và vị thánh đệ tử nghe nhiều, người phàm phu thời chấp thủ sáu kiến xứ này, còn vị thánh đệ tử nghe nhiều thời không. Tiếp đến Đức Phật nói đến sự vô lý của chấp ngã như đã trình bày trong kinh 66, số 148, Trung Bộ 3: "Nếu mắt là tự ngã, như vậy không hợp lý. Sự sanh và diệt của mắt đã được thấy nên phải đưa đến kết luận 'Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi'. Do vậy nếu ai nói: 'Mắt là tự ngã', như vậy không hợp lý" (Trung Bộ III, 474-475). Cũng vậy đối với các pháp khác. Kinh Vô ngã tướng lại nói thêm, xem 5 uẩn là tự ngã không thể chấp nhận được, vì đối với thân của ta, ta không có quyền lực muốn thân của ta phải như ý muốn ta. Do vậy không thể xem 5 thủ uẩn là tự ngã. Rồi Đức Phật nói lên những nguy hiểm đau khổ do chấp ngã gây ra: "Ai khởi nên ý nghĩ, cái gì chắc chắn của ta, nay chắc chắn không còn là của ta, chắc chắn ta không được cái ấy. Suy nghĩ như vậy, nó sầu muộn than van khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh" (Trung Bộ I, 136A). Nếu nó không suy nghĩ như vậy, thời nó đâu có sầu muộn than van. Còn những ai tin rằng sau khi chết, ta sẽ thường hằng, thường tồn mãi mãi, và khi nghe đức Phật hay đệ tử của đức Phật giảng pháp, bạt trừ tất cả kiến xứ, tịnh chỉ các hành, từ bỏ mọi sanh y, đoạn trừ khát ái, thời vị ấy sầu muộn than van khóc lóc dập ngực đi đến bất tỉnh, vì nghĩ rằng mình sẽ bị hoại diệt, không còn tồn tại. Cho nên mọi đau khổ khởi lên đều chính do chấp 5 thủ uẩn này là của ta, là ta, là tự ngã của ta.

Để mọi người ý thức rõ 5 thủ uẩnvô ngã, Đức Phật đặt một số câu hỏi: "Sắc là thường hay vô thường? Cái gì vô thường là khổ hay lạc? Cái gì vô thường, khổ chịu sự biến hoại, liệu có hợp lý chăng nếu xem sắc là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi?". Các câu trả lời tất nhiên xác nhận sắc là vô thường, là khổ, là vô ngã, cũng như các thủ uẩn khác. Rồi Đức Phật đi đến kết luận, khích lệ các vị Tỷ-kheo cần phải quan sát: "Này các Tỷ-kheo, bất cứ sắc pháp nào . . cảm thọ nào... tưởng nào... hành nào... thức nào quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần tất cả thức là: "Cái này không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngả của tôi" (Trung Bộ I, 138A). Nhờ quán như vậy, vị Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng ... đối với hành... đối với thức. Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát có trí biết được đã giải thoát. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hành đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa" (Trung Bộ I, 139). Như vậy chính nhờ quán vô ngã, vị hành giả chứng được Thánh quả. Và đã chứng Thánh quả thời mọi đau khổ đều được tiêu diệt hoàn toàn.

Đến đây chúng ta có thể xác nhận đạo đức Phật giáo là một nếp sống vô ngã, có vô ngã, mới đem lại hạnh phúcan lạc cho mọi loài chúng sinh. Có vô ngả mới đề cao vị trí tối thượng của con người hướng đến đời sống trong sạch, không uế nhiễm. Có vô ngã mới thành tựu được một nếp sống hiền thiện tránh ác làm lành. Có vô ngã đời sống mới thực sự an lạc, bình an thoải mái. Có vô ngã mới đi đôi với giải thoát khỏi đau khổ, khỏi sanh não bệnh chết. Có vô ngã mới giúp trí tuệ phát triển khả năng đoạn tận các lậu hoặc, các kiết sử. Có vô ngã mới thực hiện được nếp sống hài hòa với thiên nhiên, với cảnh giới bên ngoài. Có vô ngã mới thực hiện được một đời sống hòa hợp, thông cảm, tương thân tương ái. Có vô ngã mới xât dựng một nếp sống từ bi hỷ xả. Có vô ngã mới thực hiện được một nếp sống đạo đứcđức Phật muốn thực hiện ngay trong đời này, cho tất cả mọi loài chúng sinh.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11795)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11048)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12093)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12324)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20475)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12342)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12358)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11634)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11508)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22311)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13485)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29486)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11445)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16590)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11896)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16733)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 11983)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17845)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12515)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13045)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14659)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22484)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10489)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 13957)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13795)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13626)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13785)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13817)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14731)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13708)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18291)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22653)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15278)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17190)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22302)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14157)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12476)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11063)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17650)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13095)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 12992)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18687)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17062)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13381)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12807)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14584)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14545)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15741)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13405)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27275)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13074)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16584)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21289)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18685)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
(Xem: 22952)
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp khôngtự tính cá biệt.
(Xem: 19961)
Ðọc Bát Nhã Tâm Kinh, tôi thấy như có một luồng gió mới, nó phá bỏ tất cả quan niệm, chối bỏ luôn cả cái hiện hữu. Tôi viết bài nầy theo sự hiểu biết đơn giản của tôi...
(Xem: 9358)
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana, Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh; Nhà xuất bản Phương Đông
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant