Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Nan Đà

25 Tháng Năm 201200:00(Xem: 18158)
Tôn giả Nan Đà
TÔN GIẢ NAN ĐÀ 
Toàn Không

 

 Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc khác thường, ôm bình bát đi vào thành Xá Vệ khất thực. Khi ấy nhiều Tỳ Kheo trông thấy thế, liền đến chỗ đức Phật lễ lạy rồi nói:

- Thưa đức Thế Tôn, vừa rồi Tỳ Kheo Nan Đà choàng áo sặc sỡ, đi giày viền vàng đẹp đẽ vào thành khất thực.

 Đức Phật liền bảo một Tỳ Kheo khác đi gọi Nan Đà trở lại gặp Ngài, khi Tỳ Kheo Nan Đà trở lại đến chỗ đức Phật lễ lạy rồi, đức Phật hỏi:

- Nay Thầy vì sao chưng diện đẹp đẽ như thế để vào thành khất thực?

 Tỳ Kheo Nan Đà làm thinh không đáp, Đức Phật nói tiếp:

- Thế nào Nan Đà, Thầy há chẳng do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo sao?

 Nan Đà thưa:

- Đúng vậy thưa Thế Tôn.

 Đức Phật bảo:

- Thầy là con nhà danh giá (vọng tộc) chẳng làm (hành) đúng với người tu do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lại chưng diện tô sửa hình vóc rồi vào thành khất thực, như vậy đối với người thường (bạch y) đâu có khác gì?

 Nay Thầy: chớ làm như vậy nữa; nói xong đức Phật đi vào tịnh thất.

*****

 Được ít ngày sau, một số Tỳ Kheo lại đến thưa với đức Phật:

- Tỳ Kheo Nan Đà: chẳng kham khuôn phép người tu (tu hành phạm hạnh), muốn cởi áo tu hành (pháp phục), tập lối sống (tập hạnh) tại gia.

 Đức Phật bảo một Tỳ Kheo đi gọi, sau khi Tỳ Kheo Nan Đà đến lễ lạy rồi, đức Phật bảo:

- Thế nào Nan Đà, Thầy chẳng ưa tu phạm hạnh (khuôn mẫu phép tắc), muốn cởi bỏ giáo lý và cách ăn mặc của người tu (cởi pháp y), tập theo thói người thường (tập hạnh bạch y), tại sao thế?

 Tỳ Kheo Nan Đà đáp:

- Thưa vâng, đức Thế Tôn! Con vì lòng dục quá nhiều (lừng lẫy), chẳng thể kìm chế được. 

- Thế nào Nan Đà? Thầy không phải con nhà dòng dõi danh giá (vọng tộc), do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo sao?

- Đúng như vậy, thưa Thế Tôn! Con là dòng dõi danh giá, do lòng tin kiên cố nên xuất gia học đạo.

- Nếu là dòng dõi danh giá do lòng tin kiên cố thì Thầy chẳng nên như thế, tại sao lại bỏ chính pháp (giáo pháp tốt đẹp) muốn tập xấu xa (ô uế); người mắc vào dâm dục và uống rượu sẽ không nhàm chán. Dâm dục và uống rượu là ô uế sẽ đi vào sa ngã, người có tật này không thể đạt cứu cánh (vô vi).

 Nay Thầy nhớ tu phạm hạnh (khuôn mẫu phép tắc), hướng đến đạo quả sẽ có lợi ích lớn cho Thầy.

 Đức Phật nói rồi lại nghĩ: “Nan Đà ý dục quá nặng, ta phải dùng lửa trừ lửa”. Nghĩ rồi, tức thì một tay Ngài nắm cánh tay Nan Đà, chỉ trong chớp mắt đã đem Nan Đà lên núi Hương sơn. Chỗ ấy có một con khỉ mù xấu xí ở trong hang đá. Đức Phật hỏi:

- Nan Đà, Thầy có thấy con khỉ mù không?

- Thưa có thấy.

- Tôn Đà Lợi (người mà Nan Đà thương nhớ) đẹp hay con khỉ mù này đẹp?

- Làm sao mà ví được, con khỉ mù này quá xấu xí, làm sao so sánh được với Tôn Đà Lợi đẹp như tiên, nên lúc nào con cũng nhớ cô gái họ Thích.

 Bấy giờ, đức Phật và Nan Đàn như trong khoảng thời ngian duỗi cánh tay biến khỏi núi Hương sơn liền đến cõi Trời Đạo Lợi; lúc ấy chư Thiên (các vị Trời) tụ tậpgiảng đường Thiện Pháp, cách đó không xa có cung điện bên trong tụ tập vô số Thiên Nữ đang vui đùa.

 Nan Đà nhìn thấy các Thiên Nữ đàn ca múa hát vui đùa như thế, liền thưa hỏi đức Phật:

- Đây là chỗ nào mà nhiều người đẹp đàn ca múa hát vui vẻ như thế?

 Đức Phật bảo:

- Thầy tự đến đó hỏi đi.

 Nan Đà liền đi đến, thấy cung điện trang trí đẹp đẽ khác thường, bên trong toàn là con gái đẹp tuyệt trần, không có một người con trai, Nan Đà liền hỏi:

- Các cô là gì mà đàn ca múa hát vui chơi đùa rỡn khoái lạc như thế?

 Một cô đáp:

- Chúng tôicõi Trời Đạo Lợi đây có 500 Ngọc Nữ đều chưa có chồng, chúng tôi nghe nói có đệ tử của Thế Tôn ở trần gian tên là Nan Đà con của Di Mẫu (Dì làm mẹ kế), Ngài đang ở chỗ Như Lai (Đức Phật) tu phạm hạnh; sau khi qua đời ở đó sẽ sinh về đây làm chồng (phu chủ) của chúng tôi để cùng vui thú với nhau.

 Nan Đà nghe thế, trong lòng rất vui mừng, liền nghĩ: “Ta là Nan Đà, là đệ tử Thế Tôn, lại cũng là con Di Mẫu, đúng là ta rồi, các Ngọc Nữ đẹp tuyệt trần này đều sẽ là vợ ta cả”. Trong lòng mừng rỡ vô kể, Nan Đà liền chào tạm biệt các Thiên Nữ rồi trở lui tới chỗ đức Phật, Ngài hỏi:

- Thế nào Nan Đà, các Ngọc Nữ ấy nói gì?

- Họ nói: “Mỗi người chúng tôi đều chưa có chồng, lại nghe nói có đệ tử đức Thế Tôn tên Nan Đà, con Di Mẫu tu phạm hạnh, sau khi qua đời sẽ sinh đến đây, người này sẽ là chồng chúng tôi”.

- Nan Đà, ý Thầy thế nào?

- Vừa rồi khi nghe các Ngọc Nữ nói, con tự nghĩ: “Ta là đệ tử Thế Tôn, lại con Di Mẫu của Phật, các Ngọc Nữ này sẽ là vợ của ta”.

 Đức Phật hỏi:

- Thế nào, Nan Đà? Cô gái Thích Tôn Đà Lợi đẹp hay 500 Ngọc Nữ kia đẹp?

 Nan Đà đáp:

- Ví như con khỉ mù đối với Tôn Đà Lợi, Tôn Đà Lợi giống như con khỉ mù đối với các Ngọc Nữ đẹp tuyệt vời chưa từng thấy bao giờ, Tôn Đà Lợi không thể nào so sánh được với các Ngọc Nữ kia.

 Đức Phật bảo:

- Hay thay! Nan Đà, hãy khéo tu phạm hanh, Ta sẽ tác chứng cho Thầy, khiến 500 Ngọc Nữ kia đều cấp cho Thầy.

 Khi ấy đức Phật lại nghĩ: “Ta sẽ dùng nước diệt lửa cho Nan Đà”. Rồi trong khoảng thời gian như người duỗi cánh tay, Ngài lại cầm cánh tay Nan Đà biến khỏi cõi Trời, tới thẳng Địa Ngục, ngang qua bao nhiêu chỗ Địa ngục, thấy bao nhiêu cảnh khổ, làm cho Nan Đà sợ hãi, lông tóc dựng đứng. Như chỗ quỷ ngục cho trâu cày trên lưỡi tội nhân, chỗ quỷ ngục bỏ tội nhân nằm trên giường chông nhọn hoắt, chỗ tội nhân bị lửa đốt, v.v.... Tới một chỗ có cái vạc lớn trống không chẳng có tội nhân, thì dừng lại. Nan Đà thắc mắc hỏi đức Phật:

- Đây là đâu, mọi chỗ đều có chúng sanh chịu khổ, chỉ có vạc kia còn trống tội nhân là sao?

 Đức Phật nói:

- Đây gọi là địa ngục A Tỳ, muốn biết rõ việc này, Thầy hãy tự đi hỏi ngục tốt đang đứng gần cái vạc đó.

 Nan Đà liền đến hỏi ngục tốt:

- Đây là ngục gì mà không có tội nhân trong vạc như thế?

 Ngục tốt đáp:

- Đây là địa ngục A Tỳ, Ông nên biết, nghe nói có đệ tử đức Thích Ca tên Nan Đà đang tu phạm hạnh, khi qua đời sẽ sinh lên cõi Trời, ở đó sống dục lạc sung sướng. Khi chết ở cõi Trời sẽ sinh vào địa ngục A Tỳ này, cái vạc này vì thế để trống chờ người ấy sinh đến đây chịu khổ.

 Nan Đà nghe những lời nói ấy, lòng hoảng sợ, da nổi gai gà, lông tóc dựng đứng, thì nghĩ: “Cái vạc này chính là dành cho ta!” Nan Đà vội trở lại chỗ đức Phật cúi lạy mà thưa:

- Xin Thế Tôn cho con được sám hối lỗi, con đã chẳng tu phạm hạnh, mà lại xúc nhiễu Thế Tôn”.

 Rồi Nan Đà liền nói kệ:

Đời người không đủ quý,
Thọ hết Trời cũng tiêu,
Địa ngục khổ chua cay,
Chỉ Niết Bàn là sướng.

 Đức Phật bảo:

- Lành thay! Lành thay! Như lời Thầy nói, Niết Bàn là tịnh lạc. Nan Đà, Ta nhận cho Thầy sám hối, Như Lai nhận lời sám hối của Thầy, sau chớ phạm nữa.

 Rồi trong khoảng thời gian như người duỗi cánh tay, đức Phật nắm cánh tay Nan Đà biến khỏi Địa Ngục trở về vườn Cấp Cô Độc. Lúc đó đức Phật chỉ dạy cho Tỳ Kheo Nan Đà phương pháp tu hành.

 Sau khi nhận lãnh lời dạy đầy đủ, Nan Đà cúi lạy rồi lui đi đến vườn An Đà ngồi dưới gốc cây giữ chính thân nhớ nghĩ lời dạy của đức Phật, siêng năng không lười mỏi, không ngưng nghỉ. Do lòng tin kiên cố tinh tấn thiền định Chỉ (Sa ma tha: tĩnh lặng) Quán (Tỳ bà xá na: tập trung vào đề mục), tu pháp vô thượng. Như thật biết sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thụ thân sau nữa. Lúc ấy Tôn Giả Nan Đà liền đạt bậc Thánh, bậc A La Hán. Tôn Giả liền đứng lên đến chỗ đức Phật, lễ lạy rồi thưa:

- Thưa đức Thế Tôn, như trước đây Thế Tôn hứa chứng cho con 500 Ngọc Nữ, nay con xin bỏ hết.

 Đức Phật bảo:

- Nay Thầy sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, nay Ta sẽ bỏ lời hứa.

 Rồi đức Phật bảo các Tỳ Kheo:

- Nan Đà đã đắc A La Hán, nay Nan Đà không dâm, chẳng giận, chẳng si.

 

LỜI BÀN:

 Đọc hết bài Kinh, chúng ta thấy lúc đầu, Tôn Giả Nan Đà đã sắp xả giới bỏ đạo vì sự say mê nữ sắc không còn kìm giữ được nữa.

 Trước khi bàn luận vấn đề này, chúng ta cũng nên biết sơ qua lai lịch của Tôn Giả Nan Đà. Ngài là Hoàng Tử, con bà Ma Ha Ba Đề (Maha Pajapati), (kế mẫu của đức Phật) và Vua Tịnh Phạn (Suddhana Gotami), cùng cha khác mẹ với đức Phật.

 Trước khi đức Phật về thăm Vua cha vài ngày, Vua Tịnh Phạn đã cho tổ chức lễ thành hôn, nhận cung điện mới và phong tước cho Hoàng Tử Nan Đà rất là trọng thể.

 Vài ngày sau đức Phật trở về thăm Vua cha lần đầu tiên sau khoảng 10 năm xa cách. Lúc ấy vì sự kiêu mạn của các bậc kỳ lão trong Hoàng thân, vì đức Phật muốn phá tâm cao ngạo kiêu mạn ấy, nên Ngài đã dùng thần thông bay lên không trung, phóng ánh sáng, làm thân phát ra lửa, phụt ra nước, và các phép biến hóa trên không. Bấy giờ tất cả Hoàng gia đều chứng kiến, từ già tới trẻ đều tán thán việc xảy ra chưa từng có, nên đều kính ngưỡng Ngài. Sau đó một số Hoàng thân trẻ xin xuất gia, trong đó có Hoàng Tử Nan Đà.

 Câu chuyện về Hoàng Tử Nan Đà được kể rằng: “Vì sự kính phục người Anh cả vô cùng lớn lao, nên Hoàng Tử Nan Đà luôn luôn ở gần đức Phật. Sau khi đức Phật thụ thực do Vua Tịnh Phạn cúng dàng xong, đức Phật trao bình bát cho Hoàng Tử Nan Đà. Do sự kính ngưỡng, nên Hoàng Tử lặng lẽ ôm bình bát đi theo sau.

 Tân nương của Hoàng Tử Nan ĐàTôn Đà Lợi (Janapada Kalyani) nghe thuật lại thì nước mắt chảy ra, vội vã chạy theo gọi: “Hoàng Tử, Hoàng Tử! Hãy trở lại với em, hãy trở lại với em mau đi!”

 Tiếng gọi đầy tình yêu thương của Tôn Đà Lợi làm cho Hoàng tử cảm kích thấm thía quay đầu nhìn lại người vợ đẹp của mình, nhưng vì sự kính ngưỡng và đang phải cầm cái bình bát của người Anh tôn quý, nên Hoàng Tử không dám trao trả bình bát cho đức Phật mà đành phải tiếp tục đi theo. Cứ thế Hoàng Tử ôm bình bát theo sau đức Phật về đến vườn Thượng Uyển là nơi đức Phật tạm ngự.

 Khi tới nơi rồi, đức Phật hỏi Hoàng Tử có muốn trở thành bậc Thánh thì nên xuất gia theo Ngài tu hành. Vì đã thấy tận mắt thần thông biến hóa, vì sự kính trọngsùng bái sâu xa đối với người Anh cả lại là một vị Phật, nên Hoàng Tử Nan Đà đã đồng ý thọ lễ xuất gia cùng với một số các Hoàng thân khác như A Nan Đà, A Na Luật, La Hầu La v.v...”

 Giả thử Tôn Giả Nan Đà sinh vào thời nay không có Phật, thử hỏi ai có thể có cách làm cho người sắp xả giới bỏ đạo trở lại tu hành? Thật là khó thay! Chỉ có đức Phật mới làm được thôi. Ngài đã dùng hai bước để đưa Tôn Giả trở lại đời sống của người tu hành.

 Trước hết Ngài dùng “lửa trị lửa” bằng hai cách: Dùng con khỉ mù xấu tệ để cho Nan Đà so sánh với Tôn Đà Lợi, sau đó Ngài dùng các Thiên Nữ để Nan Đà so sánh với người yêu không đáng giá. Đến khi này, nếu đức Phật ngừng ở đây, Nan Đà sẽ tu để được sinh cõi Trời hầu có thể cưới các Ngọc Nữ, chứ không còn nhớ tưởng cô gái họ Thích nữa. Nhưng để chắc chắn cho Nan Đà bỏ ý định cưới các Ngọc Nữ, nên đức Phật đã dùng “nước trị lửa” bằng cách đưa Nan Đà đến chứng kiến cảnh Địa Ngục vô cùng khổ sở. Lại nghe thấy biết tương lai của mình sẽ phải vào Địa Ngục đang chờ đợi, thì hoảng sợ quá, nên Nan Đà đã kịp thời nghĩ đến việc làm sai quấy tội lỗi của mình, vì đã không nghe lời đức Phật dạy. Do đó Nan Đà đã xin sám hối tội lỗi và được đức Phật tha thứ ngay.

 Thiết nghĩ, đức Phật cũng chỉ muốn thế mà thôi để dìu dắt Nan Đà trở lại tu hành nghiêm túc.

 Ở đây, chúng ta thấy, thông thường Đức Phật ít dùng thần thông, những khi nào cần phảithần thông thì Ngài không ngần ngại gì mà không làm. Nghĩa là trong sự giáo hóa, Ngài tùy bệnh mà cho thuốc. Bệnh của Nan Đà quá nặng nên đức Phật đã phải dùng thần thông như thế để trị. Đúng là thuốc thần chưa từng thấy.

 Ngày nay, ở vào thời mạt pháp, chúng ta chỉ được nghe nói mà không ai thấy cảnh khổ ở Địa Ngục, nên nói đến việc tu hành thì rất nhiều người cứ hờ hững lửng lơ. Lại viện ra đủ thứ lý lẽ để thoái thác hoặc trì hoãn.

 Có biết đâu rằng khi sinh vào ba cõi dữ Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục, có muốn tu cũng đã muộn mất rồi. Cơ hội làm người lúc đó còn lâu lắm, thật là khổ thay! Nhưng biết làm sao được!

 Bởi vậy, bây giờ có cơ hội tốt được làm người, chúng ta nên cố gắng tu, nếu chưa được giải thoát thì ít ra cũng được sinh vào cõi lành là Trời, Người, và kiếp sau sẽ có cơ hội tu tiếp vậy.

Toàn Không

Source: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
25 Tháng Năm 201207:00
Khách
cảm ơn, câu chuyện rất ý nghĩa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30637)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21000)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20184)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19413)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24366)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30640)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15667)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27770)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19752)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15556)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23215)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23543)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17506)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15675)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21854)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37968)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22104)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23221)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21323)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28404)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32523)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25154)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34657)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22925)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27690)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31278)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13589)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25148)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27791)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22069)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20720)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22206)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27097)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24121)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21878)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14701)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23130)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24002)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21084)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14188)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19922)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22486)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14059)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28017)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22797)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28182)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10972)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28486)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31550)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26153)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14924)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28026)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7415)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25333)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20692)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21112)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12224)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11897)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12793)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26631)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant