Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vị trời thành đại Sa Môn

05 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 16919)
Vị trời thành đại Sa Môn
VỊ TRỜI THÀNH ĐẠI SA MÔN 
Toàn Không

 

 Một thời đức Phật ngự tại rừng trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt, nước Ma Kiệt cùng với 500 Tỳ Kheo. Khi ấy tại cõi Trời Đạo Lợi có một vị Trời (Thiên Tử) than thở lo buồn khổ não, Vua Trời Đế Thiên Đế Thích biết vậy, liền đến chỗ vị ấy hỏi:

- Cớ sao Ông than thở khổ não lo buồn thế?

 Vị Trời ấy đáp:

- Thưa Thiên Đế! Không lo buồn sao được, mạng tôi sắp hết rồi, có 5 điềm báo mệnh chung (mạng hết), đó là:

1- Hoa đội trên đầu đang héo dần đi.

2- Áo choàng trở nên dơ bẩn.

3- Mồ hôi ra khó chịu lắm.

4- Chẳng ưa ngồi tòa nữa.

5- Các Ngọc Nữ xa lánh dần.

 Lại nữa: dù thưởng thức vị ngon hoặc uống nước cam lộ chẳng còn thấy mùi vị ngon gì cả.

 Vua Trời Đế Thích bảo vị Trời:

- Nay Ông cho rằng ở đời là thường hằng, việc này không đúng, Ông không nghe đức Thế Tôn nói sao? Đó là:

Tất cả hành vô thường,
Đã sinh ắt có chết,
Không sanh thì chẳng diệt,
Diệt này là tối thắng.

- Thưa Thiên Đế, thân Trời như mặt trời mặt trăng chiếu sáng khắp cả, nay sắp bỏ thân này, tôi phải vào bụng lợn (heo) tại thành La Phiệt, sống nơi dơ, ăn đồ tạp bẩn cũng không đủ no. Khi bị chết do dao đâm mổ xẻ, thật là khủng khiếp như thế, việc này không buồn sao được?

- Nay Ông nên quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, có thể không bị đọa ba đường dữĐịa Ngục, Ngạ QuỷSúc Sanh. Đức Thế Tôn đã nói kệ ta còn nhớ là:

Quy y Phật khỏi đọa Địa Ngục,
Quy y Pháp khỏi đọa Ngạ Quỷ,
Quy y Tăng khỏi đọa Súc Sinh,
Quy y Tam Bảo đệ nhất ích.

 Nếu Ông muốn đến chỗ Như Lai xin quy y, hiện Ngài đang ở rừng trúc Ca Lan Đà thành La Duyệt nước Ma Kiệt cùng 500 vị Tăng.

- Bây giờ tôi không còn đủ sức thần thông biến hóa nữa, nên không thể đến đó được.

- Ông nên quỳ gối phải, chắp tay hướng xuống thế gian mà nói:

 “Cúi xin đức Thế Tôn khéo quán sát cho.

Nay con sắp khốn cùng, nguyện xin Như Lai thương xót cho.

Nay con nguyện quy y Phật Pháp Tăng, xin Như Lai chứng tri cho.

Nay con nguyện quy y Tam Bảo được khỏi bị đọa Địa Ngục Ngạ Qủy Súc Sinh, xin Như Lai chứng cho”.

 Vị Trời ấy nghe lời Vua Trời (Đế Thích, Thích Đề Hoàn Nhân), liền quỳ xuống, hướng mặt xuống thế gian xưng tên họ, xin tự quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng, xin làm Phật tử không làm Thiên tử; vị ấy nói ba lần như Vua Trời đã bảo, nhất tâm ý trong sự kính ngưỡng.

 Sau khi qua đời ở cõi Trời, không bị vào thai lợn heo, được sinh vào nhà Trưởng Giả ở thành La Duyệt.

 Ngay khi tự quy y, Vị Trời ấy thấy được duyên này, liền hướng qua Đế Thích nói kệ:

Nhờ Ngài không đọa ác,
Súc sanh nhân rất khổ,
Biết sinh con Trưởng giả,
Nhân đó sẽ thấy Phật.

 Chẳng bao lâu sau đó vợ Trưởng giả tự biết có thai, gần 10 tháng sinh một bé trai đẹp đẽ thế gian hiếm có. Khi đứa bé 10 tuổi, Đế Thích thường đến bảo nó:

- Ngươi có nhớ nhân khi xưa không? Ngươi đã tự nói: “Ta nhân đó sẽ thấy Phật”, nay đúng lúc rồi, hãy đến gặp Phật, nếu không sau sẽ hối hận”.

 Một hôm, Tôn Giả Xá Lợi Phất vào thành khất thực, đến nhà Trưởng giả đứng lặng lẽ ngoài cửa, lúc ấy con Trưởng giả trông thấy hình dạng Tôn giả kỳ đặc, liền đến gần hỏi:

- Ngài là ai, Ngài là đệ tử của ai?

 Tôn giả Xá Lợi Phất đáp:

- Ta là Xá Lợi Phất học đạo nơi Thầy ta là Sa Môn Cù Đàm là bậc Phật (chí chân Như Lai Chính Đẳng Chính Giác).

- Nay Ngài diện mạo uy nghi lặng lẽ đứng đây, Ngài mong muốn điều gì?

 Tôn giả Xá Lợi Phất nói kệ đáp:

Ta nay chẳng cầu tiền,
Chẳng ăn chẳng việc chi,
Chỉ vì ngươi mà đến,
Hãy suy xét lời ta.
Nhớ lời xưa ngươi nói,
Cõi Trời lúc nói thệ,
Làm người sẽ gặp Phật,
Nên đến để bảo ngươi.
Khó có Phật ra đời,
Thuyết pháp cũng như thế,
Thân người chẳng dễ được,
Như hoa Ưu đàm nở.
Nay ngươi nên theo ta,
Đến thăm hỏi Như Lai,
Chắc sẽ vì ngươi nói,
Yếu chỉ của đường lành.

 Sau khi nghe Tôn giả nói kệ, liền trở vào chỗ cha mẹ xin được đi thăm viếng đức Thế Tôn, được cha mẹ đồng ý. Rồi con Trưởng giả mang hương hoa và vải tốt theo Tôn giả Xá Lợi Phất đi đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ. Tôn Giả Xá Lợi Phất thưa:

- Đức Thế Tôn, con Trưởng giả chưa biết Tam Tôn (Phật Pháp Tăng), cúi mong Thế Tôn giảng dạy cho con Trưởng giả được sự hiểu biết.

 Lúc ấy, con Trưởng giả từ xa trông thấy đức Phật dung mạo uy nghi, đẹp đẽ trang nghiêm nhìn mãi không chán, liền tiến lên đến gần lễ lạy, rồi lấy hương hoa rải lên thân đức Phật đang ngồi, lại lấy sấp vải dâng lên.

 Khi ấy đức Phật thuyết các luận bố thí, giới cấm, dục là dơ bẩn, các việc làm xấu là tai họa, xuất giacần yếu. Khi chú bé tâm đã khai mở, Ngài nói về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, làm sao diệt khổ, con đường đạo quả. Lúc ấy chú bé thấm nhuần lãnh thụ hết, sạch hết cái xấu ở đời, được tâm trong sạch như tờ giấy trắng. Đuợc như thế rồi, con Trưởng giả liền xin được theo Phật. Ngài bảo:

- Còn ít tuổi, phải có phép của cha mẹ, không từ giã cha me, chẳng được làm Sa Môn.

 Con Trưởng giả thưa:

- Con sẽ trở về xin cha mẹ chấp thuận,

- Nếu vậy, bây giờ là đúng lúc.

 Con Trưởng giả liền đứng dậy cúi lạy rồi lui về nhà thưa với cha mẹ xin được theo đức Phật làm Sa Môn, nhưng cha mẹ từ chối và nói:

- Chỉ có một mình con, trong nhà lại có nhiều của cải tài sản, vả lại tu theo Sa Môn không dễ dàng đâu, con nên suy nghĩ cho kỹ.

 Con Trưởng giả đáp:

- Ức kiếp mới có Phật ra đời, đúng thời mới xuất hiện, như hoa Ưu đàm bát đúng thời mới nở chứ không phải lúc nào cũng có đâu, nên con không muốn bỏ mất cơ hội tốt này, xin cha mẹ chấp thuận cho con.

 Ông bà Trưởng giả thấy con nói có lý, không biết làm sao, nên nói:

- Nếu con đã suy nghĩ kỹ và nhất quyết, thì cha mẹ không ngăn cản.

 Lúc ấy, con Trưởng giả vái lạy cha mẹ từ giã ra đi đến chỗ đức Phật cúi lạy rồi thưa:

- Cha mẹ con đã bằng lòng cho con được theo chân đức Thế Tôn, cúi mong Ngài cho con được làm Sa Môn.

 Bấy giờ đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất:

- Nay Thầy độ cho con Trưởng giả làm Sa Môn.

- Xin vâng, thưa Thế Tôn.

 Tôn giả Xá Lợi Phất vâng lời đức Phật dạy, độ cho con Trưởng giả làm Sa Di, ngày ngày dạy dỗ. Sa Di ấy ở trong chỗ vắng tu hành, khắc phục mọi khó khăn tu hành như các vị con nhà danh giá xuất gia học đạo, tu phạm hạnh (khuôn mẫu đức hạnh phép tắc) tối cao, muốn được xa lìa khổ não của cuộc đời. Sau một thời gian tu hành nghiêm chỉnh như thế, Sa Di đạt tới bậc A La Hán, Tôn giả ấy đến chỗ đức Phật thưa:

- Con đã học Phật nghe pháp, tu hành đầy đủ, nay không còn nghi ngờ gì nữa.

 Đức Phật hỏi:

- Thầy học hỏi tu hành như thế nào mà không còn hồ nghi nữa?

 Sa Di thưa:

- Sắc là vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không có.

 Thọ, tưởng, hành, thức vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không tức là chẳng phải có, chẳng phải không; người trí hiểu biết như thế, nhiều sự khổ não không thể trị liệu, không thể giữ mãi, ắt phải quán vô ngã.

 Hôm nay con quán sát pháp này, liền thấy được Như Lai”.

 Đức Phật bảo:

- Lành thay, lành thay! Sa Di, cho Thầy làm đại Sa Môn.

 

LỜI BÀN:

 Bài Kinh này dạy chúng ta điều gì?

1- Trước hết là dù có được sinh đến cõi Trời, khi hết phúc báo, hết tuổi thọ cõi Trời rồi lại bị đọa nếu ở cõi Trời không biết tu hành. Vì ở cõi Trời sung sướng thường thích hưởng thụ nên quên tu hành, trong 6 tầng Trời thuộc Dục giới, chỉ có cõi Đâu SuấtĐao Lợi là có Phật Pháp đang lưu hành. Ở các cõi Sắc giới cũng có Phật pháp lưu hành như cõi Phạm Thiên; tuy nhiên ngay cả tại ba cõi vừa kể, không phải chư Thiên nào cũng biết đến Phật pháp; như ở cõi NgườiPhật pháp đang lưu hành, nhưng không phải mọi người trên địa cầu này đều biết phật pháp. Ngay cả những người biết Phật pháp, chưa chắc đã tu hành theo.

2- Thứ nữa là sự quy y Phật Pháp Tăng đã đem lại lợi ích lớn, như vị Trời kia nếu không được Vua Trời mách bảo, và nếu không tự quy y, thì đã bị đọa sinh vào loài lợn heo rồi. Cái lợi của sự quy y Tam Bảo to lớn như thế, nhưng đa số chúng ta không thấy sự lợi lạc này, nên nhiều người đã coi thường sự quy y. Vậy những ai chưa quy y hãy đến bất cứ Chùa nào mà mình cảm thấy vị Thầy có tâm đạo hạnh để xin quy y, đừng bỏ lỡ.

3- Còn việc Tôn giả Xá Lợi Phất đến nhà Trưởng giả đứng làm thinh để độ cho con Trưởng giả là do nguyên nhân nào?

 Có thể rằng Vua Trời Đế Thích đã nói với Tôn giả sự việc, cũng có thể Tôn giả quán sát biết, hoặc do đức Phật cho Tôn giả biết.

4- Một điểm thiếu sót, không hiểu tại sao Kinh này không nói tên của vị đại Sa Môn ấy?

5- Đến đây, chúng ta thử bàn về đoạn chót của bài Kinh:

 Sau khi Sa Di tu hành thấy có kết quả rồi, bèn đến chỗ đức Phật thưa rằng: “Con đã học Phật nghe pháp, tu hành đầy đủ, Nay không còn nghi ngờ điều gì nữa”, ý nói đã học đầy đủ, tu hành trọn vẹn, đã đạt mục đích, nên không còn việc gì phải làm nữa.

 Đức Phật liền hỏi: “Thầy học hỏi tu hành thế nào mà không còn hồ nghi nữa?Đức Phật muốn trắc nghiệm xem Sa Di đã học hỏi như thế nào, hiểu biết ra sao, thực hành đến đâu rồi?

 Sa Di bạch: “Sắc là vô thường, vô thường thì khổ, khổ thì vô ngã, vô ngã tức là không, không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không có”, Chúng ta thử phân tích xem đoạn này Tôn giả Sa Di muốn nói gì?

- Sắc là vô thường:

 Sắc là vật chất, mọi vật chất đều biến đổi, như cái nhà, cái xe, thân xác chúng ta mỗi ngày mỗi thay đổi. Từ mới thành cũ thành hư, từ trẻ thành già thành bệnh rồi chết; như vậy rõ ràng chẳng có cái gì chắc chắn trường tồn, nên “sắc là vô thường”.

- Vô thường thì khổ:

 Cái nhà cái xe cũ đi, hư hỏng, làm cho ta lo buồn; thân ta mỗi ngày già đi, yếu đi, sinh bệnh tật rồi chết làm cho ta buồn khổ. Như vậy vì những sự thay đổi tồi tệ ấy làm cho ta không vui được, như thế rõ ràng “vô thường thì khổ”.

- Khổ thì vô ngã:

 Vô ngã: là không có tôi, không có ta, tại sao khổ thì vô ngã? Đây chỉ là một cách nói, chính ra nên nói: “Khổ thì phải vô ngã” vì có ngã có ta nên mới khổ, nếu không chấp ngã. không chấp ta thì hết khổ, nếu không chấp cái của ta thì hết khổ, tại sao? Vì chấp cái thân này là mình, chấp cái nọ cái kia là của mình, chấp chặt như thế, nên khi thân này già đi yếu đi, bệnh hoạn đến chết, cái xe bị hư hỏng v.v..., thì cảm thấy buồn khổ.

 Nếu không cho thân này là ta, không cho cái nọ cái kia là của ta, thân này có bệnh hoạn già chết, cái xe hư hỏng v.v..., cũng chẳng động tâm thì làm sao buồn khổ được, nếu không chấp ta, không chấp cái của ta sẽ hết khổ, nên nói “khổ thì phải vô ngã để hết khổ”.

 Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành; Tâm gồm “Thọ, Tưởng, Hành, Thức”; thân kết hợp bởi các bộ phận, tất cả bộ phận thân thể đều do sự kết hợp của các tế bào nguyên tử mà thành, các tế bào luôn sinh diệt không ngừng, nên nó là vô thường, chẳng có cái gì có thể gọi là cái ta, đó là về Sắc Thân.

 Còn về Tâm gồm: cảm giác (Thọ); suy nghĩ, tưởng nhớ (Tưởng); tác ý, ý muốn, suy nghĩ (Hành); phân biệt, so sánh (Thức). Tâm gồm bốn thứ thuộc tinh thần, chúng luôn luôn thay đổi không cố định, như cảm giác có lúc buồn có lúc vui (Thọ), có lúc suy nghĩ tưởng nhớ có lúc không suy nghĩ tưởng nhớ (Tưởng), có lúc suy nghĩ muốn làm có lúc không suy nghĩ, không muốn làm gì cả (Hành), có lúc phân biệt so sánh việc này việc nọ có lúc không muốn phân biệt so sánh gì cả (Thức). Như vậy bốn món của tâm không đồng nhất, luôn luôn biến đổi, nên chẳng có cái nào được gọi là ta, do đó “Vô thường thì vô ngã”.

- Vô ngã tức là không: Tại sao?

 Vì đã cho rằng: không có Ngã, tức không chấp nhận cái thân tâm này là ta rồi, nó chỉ là giả có tạm có, chứ nó không có thực thể gì, nên nó là không, nên nói “Vô ngã tức là không” là vậy.

- Không là chẳng phải có, cũng chẳng phải không: Là sao?

Không là chẳng phải có: Là sao? Tức là thân tâm này chẳng phải thật có, chẳng thể chấp chặt để rồi sinh ra đủ thứ xấu xa, như sinh ra tham lam, giận hờn, kiêu ngạo, ích kỷ, nói dối v.v... để gìn giữ bảo thủ cho cái ta; nếu không chấp cái thân tâm này là có, đâu còn sinh ra những thứ xấu xa như thế nữa?

Không cũng chẳng phải là không có: Là sao? Tức là tuy coi cái thân này là giả hợp, là tạm, do nhân duyên hợp mà tạm có, là không, nhưng không phải là không ngơ chẳng có gì như trong cái bình không có không khí và bất cứ vật gì. Không phải là không như thế đâu, mà trong cái thân này còn có một thứ trong sạch, tròn sáng nhỏ hơn đầu kim nhọn, lớn bằng đại vũ trụ, nó rất quý giá; cái quý giá này gọi là chân không diệu hữu, không thể nghĩ bàn, nó chính là Phật tánh của mỗi người mà đức Phật đã chỉ cho chúng ta, bởi vậy mới nói “Không chẳng phải là không có”, là vậy.

Toàn Không

(CÙNG TÁC GIẢ)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4975)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4362)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4647)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4695)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5850)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3287)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5253)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2916)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4124)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5278)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4259)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3316)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6356)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5320)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4615)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6223)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6097)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3878)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6029)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4632)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4779)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3380)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6271)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4938)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3535)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3462)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5658)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4226)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5973)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5230)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3661)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3748)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3703)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3524)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5359)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 3999)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4353)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5814)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3117)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3060)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3849)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4845)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3561)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3029)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4563)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4712)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3427)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3981)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4720)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3559)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3600)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5124)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4149)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3284)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2993)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3031)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3099)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3091)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3466)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3994)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant